NGÀY MỒNG 1
×
Tháng Hoa Đức Mẹ
Có ba việc người ta quen làm trong tháng Đức Mẹ là:
1. Nếu có thể được thì tối nào cũng nên đến nhà thờ làm việc tháng Đức Mẹ chung với nhau. Vì khi ta nghe giảng, nghe sách nói về quyền phép và lòng từ bi Đức Mẹ và khi nhìn ngắm ảnh đầy vẻ nhân từ giữa những hoa tươi, nến sáng, thì ta dễ thêm lòng yêu mến Mẹ. Nếu ngăn trở không đến Nhà thờ được thì hãy làm việc tháng Đức Mẹ ở nhà.
2. Nếu có thể được ta nên dự lễ mọi ngày, có ý cảm tạ Thiên Chúa vì mọi ơn Người đã ban cho Đức Mẹ.
3. Trong tháng này, ta hãy xưng tội một đôi lần và rước lễ nhiều lần, vì chẳng có việc nào đẹp lòng Đức Mẹ cho bằng sự xưng tội rước lễ.
Nếu ta chịu khó làm bấy nhiêu việc, thì chẳng những ta sẽ được Đức Mẹ hộ phù cách riêng mà lại được hưởng nhờ các ân xá Tòa thánh ban cho những ai làm việc tháng Đức Mẹ.
Lạy Mẹ Maria là Mẹ Chúa Giêsu cùng là Mẹ chúng con. Trong tháng này con cái Mẹ sẽ chạy đến cùng Mẹ cách riêng. Vậy chúng con dốc lòng ca ngợi, cầu xin và yêu mến Mẹ hết lòng, chúng con sẽ dâng cho Mẹ những việc lành, cùng với mọi khổ cực chúng con sẽ chịu trong tháng này, nhất là chúng con dâng trót lòng chúng con để yêu mến Mẹ; xin Mẹ chịu lấy và nhận chúng con làm con cái riêng của Mẹ Amen.
Ngày Mồng Một
Còn nói về những việc phải làm trong tháng này:
Muốn được đẹp lòng Đức Mẹ và được Người ban nhiều ơn, trong tháng này ta phải yêu mến và cầu xin Người cách riêng. Xưa nay ta đã yêu mến và cầu xin Mẹ, nhưng trong tháng này ta phải yêu mến và cầu xin người siêng năng và sốt sắng hơn mọi khi.
1. Trước hết, ta phải hết lòng yêu mến Mẹ, vì Chúa muốn cho ta yêu mến Người. Vì thế Người chọn Mẹ làm Mẹ Chúa Giêsu, là Chúa cứu chuộc ta, Người đã giao cho Mẹ quyền phân phát mọi ơn cho ta.
Ta phải yêu mến Mẹ, vì Chúa Giêsu và các thánh đã làm gương cho ta. Xưa nay chẳng con nào yêu Mẹ mình bằng Chúa Giêsu yêu mến Mẹ. Không ai kể xiết những việc các thánh đã làm và những khổ cực các thánh chịu để yêu mến và tôn sùng Mẹ.
Ta phải yêu mến Mẹ vì Mẹ là Mẹ ta. Con thảo hiếu thì yêu mến cha mẹ mình.
Ta phải yêu mến Mẹ, vì ân phúc Mẹ dư đầy, vì nhân đức Mẹ cao cả, như kinh cầu đã xưng Mẹ là đấng thiên hạ yêu mến.
Sau hết ta phải yêu mến Mẹ, vì các thánh và những đấng nhân đức, những đấng cầm quyền Giáo-hội đều quả quyết rằng: những ai thật lòng yêu mến Mẹ sẽ được rỗi linh hồn. Thánh Ligori nói rằng: “Nếu tôi thật lòng yêu mến Mẹ, thì tôi chắc chắn được lên thiên-đàng”.
Muốn thêm lòng yêu mến Mẹ trong tháng này, thì hằng ngày nên cùng nhau đến nhà thờ nghe sách ca tụng quyền thế và lòng từ bi Mẹ.
Nếu ai hiểu rõ quyền thế cao cả và lòng bừ bi vô cùng của Mẹ, sẽ than thở như lời thánh Bê-na-đô rằng: “Ôi! Mẹ cao sang, nhân từ dường ấy, sao tôi chẳng yêu mến Mẹ?”.
2. Muốn được đẹp lòng Mẹ và được Người ban nhiều ơn, trong tháng này ta phải hết lòng cầu xin Người.
Xưa thánh Bê-na-đô khuyên các thầy dòng cầu xin Đức Mẹ rằng: “Anh em hết lòng tin tưởng và khiêm nhường cậy trông Mẹ, thì Mẹ sẽ nghe lời anh em”.
Vị thánh ấy tin thật Đức Mẹ chẳng hề từ chối ban ơn cho ai hết lòng trông cậy cầu xin Người. Thánh Bênađô than thở rằng: “Lạy Mẹ, nếu xưa nay có ai trông cậy cầu xin sự gì mà Mẹ từ chối, thì tôi xin kẻ ấy đừng bao giờ ca ngợi lòng từ bi Mẹ nữa”. Nếu những ai cầu xin Mẹ một lần mà còn được Mẹ thương, thì lẽ nào những ai khiêm nhường cậy trông, cầu xin đủ một tháng lại bị Mẹ từ chối.
Vậy ta đừng bỏ dịp Tháng Đức Mẹ. Hãy sốt sắng cầu xin Mẹ những sự ta thiếu thốn hồn xác. Hãy cầu xin cho cha mẹ, họ hàng, bạn hữu. Hãy cầu xin cho Đạo Chúa một ngày một cả sáng trong nước ta, cho người ngoại giáo được trở lại, cho kẻ có tội biết đường sám hối, cho các linh-hồn ở luyện-ngục được chóng thoát khỏi khổ hình được về nơi vĩnh phúc.
Nếu xưa nay ta khô khan, không siêng-năng cầu nguyện, thì trong tháng này, ta hãy hết lòng cầu xin, hẳn Đức Mẹ sẽ ban những sự ta cầu xin. Linh mục Phêrô dạy rằng: Trời đất sẽ qua, nhưng Đức Mẹ chẳng bao giờ bỏ ai hết lòng trông cậy Người.
Lạy Mẹ Maria, là Mẹ chúng con, chúng con chẳng đáng đến trước mặt Mẹ, song chúng con cũng quyết hết lòng kêu xin Mẹ mọi ngày trong tháng này. Lạy Mẹ từ ái, chúng con cầu xin sự gì thì xin Mẹ ban cho sự ấy. Chúng con dâng việc lành nào, thì xin Mẹ nhận lấy việc ấy. Bây giờ chúng con xin dâng lòng chúng con cho Mẹ, chúng con sẽ yêu mến Mẹ trót đời. Xin Mẹ đừng để chúng con trìu mến những sự hèn hạ thế gian này.
Thánh Tích:
Ở thành Nancêniô, trong nước Pháp, có một gia đình trung lưu. Vợ đạo đức, chồng hiền lành nhưng khô khan. Bà vợ hằng cầu xin Chúa mở lòng cho chồng sửa mình lại, nhưng chồng cứng lòng mãi. Năm ấy, đầu tháng Đức Mẹ, bà sửa sang bàn thờ để mẹ con làm việc tháng Đức Mẹ. Chồng trở việc quan, ít khi ở nhà. Dù có ở nhà cũng chẳng bao giờ đọc kinh. Ngày lễ nghỉ không làm việc quan, thì đi chơi suốt ngày. Nhưng khi về, bao giờ cũng kiếm một chùm hoa dâng kính Đức Mẹ.
Rằm tháng sáu năm ấy ông chết bất thình lình, không kịp gặp Thầy cả. Bà vợ thấy chồng mình chết không kịp ăn mày các phép, sinh buồn phiền. Bà lâm bệnh phải đi điều dưỡng một nơi xa, khi qua làng Ars, bà vào nhà xứ giải bài tâm sự cùng Cha Gioan Vianney, Cha chính xứ nơi ấy.
Cha có tiếng là đạo đức, được mọi người tặng cho Ngài danh hiệu là vị “Thánh sống”. Vừa đến nơi, chưa kịp thưa điều gì thì Cha Gioan liền bảo: “Bà đừng lo cho linh hồn chồng bà. Hẳn bà còn nhớ những bông hoa chồng bà vẫn thường dâng cho Đức Mẹ những ngày lễ cả trong tháng Đức Mẹ vừa qua”.
Nghe Cha Gioan nói, bà hết sức ngạc nhiên, vì chưa hề nói với ai về những bông hoa ấy. Nếu Chúa chẳng soi sáng cho Cha Gioan, lẽ nào cha biết được.
Cha Gioan lại nói tiếp: “Nhờ lời bà cầu nguyện và nhờ việc ông ấy đã làm để tôn kính Đức Mẹ, thì Chúa đã thương cho ông ấy được ăn năn tội cách trọn trong giờ chết. Ông ấy đã được rỗi linh hồn nhưng còn bị giam ở luyện ngục. Bà hãy cầu nguyện cùng làm việc lành phúc đức cho ông ấy chóng được lên thiên đàng”. Nghe bấy nhiêu lời, bà vui mừng cùng hết lòng đội ơn Đức Mẹ.
Ta nghe sự tích này, liền hiểu rõ những việc ta làm để tôn kính Đức Mẹ, dù hết sức nhỏ mọn, cũng được Mẹ trả công bội hậu.
Vậy, vì mấy bông hoa mà người tội lỗi kia, còn được Đức Mẹ bầu cử cho, phương chi những kẻ hằng ngày dâng lên Mẹ những hoa thiêng liêng, là những kinh nguyện, những việc lành, hẳn sẽ được Mẹ ban nhiều ơn trọng đại.
|
NGÀY MỒNG 2
×
Ngày Mồng Hai
Đức Mẹ chẳng mắc tội truyền
1. Tổ tông phạm tội, liền truyền tội mình và những hình phạt bởi tội cho con cháu, là cả loài người ta trừ một mình rất thánh Đức Mẹ. Chúa đã gìn giữ Đức Mẹ không vướng tội truyền vì Người đã chọn Đức Mẹ làm Mẹ Chúa Giêsu từ trước vô cùng.
Ta phải vững vàng tin Đức Mẹ chẳng mắc tội truyền. Đó là điều phải lẽ xứng đáng xưa nay giáo dân vẫn tin như vậy. Lại nữa, Giáo Hội thay quyền Chúa Giêsu đã buộc ta phải tin điều ấy. Năm 1858, Đức Mẹ hiện ra ở Lộ-Đức, đã xưng mình là Đấng chẳng mắc tội truyền.
Đức Mẹ chẳng mắc tội truyền, đó là phúc rất trọng, là ơn cao cả, vinh dự cho Đức Mẹ. Từ trong thai, Đức Mẹ đã được dư đầy ơn phúc, trọn lành hơn các Thiên thần. Từ trong thai, Người đã được trí khôn ngoan thông thái, Người đầy lòng mến Chúa. Lòng Người công chính và thanh sạch, không hề vương bóng tội.
Linh hồn loài người mới sinh như một thành trì thất thủ hoang tàn. Nhưng linh hồn Đức Mẹ mới sinh như thành còn nguyên tuyền không bị sức phá phách của thù địch.
Các thánh dạy rằng: những ơn Chúa ban cho linh hồn Mẹ khi còn trong lòng mẹ thì nhiều và trọng hơn các ơn Người ban cho các thiên thần và các thánh. Trong các linh hồn Thiên Chúa dựng nên, đừng kể linh hồn Chúa Giêsu, thì không linh hồn nào trọn vẹn cho bằng linh hồn Đức Mẹ. Giáo Hội dùng lời kinh thánh để ca tụng Đức Mẹ rằng: “Đức Mẹở giữa con cái A-dong như bông huệ giữa bụi gai”. Quí trọng thay: ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội Chúa đã ban cho Đức Mẹ.
2. Đức Mẹ chẳng mắc tội truyền nhưng ta đã mắc tội ấy từ khi còn trong lòng mẹ. Tội ấy lôi chúng ta vào vòng nô lệ ma quỉ, đành chịu mọi hình khổ đời đời, mất phúc làm con Thiên Chúa.
Nhưng nhờ Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chuộc tội thiên hạ và lập phép Rửa tội. Nhờ đó ta được trở nên con cái Chúa, làm em Chúa Giêsu, làm đền thờ Chúa Thánh Thần. Ô! vinh dự dường nào!
Ta có cảm tạ Chúa vì phúc rất trọng ấy không? Ta có còn giữ được ơn rửa tội không? Thảm hại thay! Biết bao lần ta đã phạm tội trọng làm hoen ố chiếc áo trắng ngày chịu phép rửa tội.
Ta hãy xét mình nếu ta còn mắc tội trọng nào, thì trong tháng này hãy đi xưng tội và dốc lòng từ nay về sau thà chết chẳng thà phạm tội.
Ta hãy giữ lòng thanh sạch để xứng đáng làm đền thờ Chúa ngự. Xưa Chúa đã ngự xuống trong lòng Đức Mẹ, ngày nay Chúa cũng ngự xuống lòng ta khi rước lễ. Thiên Chúa đã dọn lòng Đức Mẹ thanh sạch thế nào thì ta cũng phải dọn lòng ta thanh sạch như vậy, mới xứng đáng làm đền thờ Chúa ngự.
Lạy Mẹ, Mẹ đã được ơn trọng vô nhiễm tội truyền. Mẹ quí trọng và đã muốn cho chúng con nhắc lại ơn đó. Vậy chúng con quyết định năng xưng ra Đức Mẹ chẳng mắc tội truyền. Xin Mẹ phù hộ che chở chúng con được dứt bỏ đường tội. Xin Mẹ nâng đỡ chúng con khi sa ngã. Chớ gì lòng chúng con luôn luôn được thanh sạch xứng đáng làm đền thờ Chúa ngự đời đời.
Thánh Tích:
Năm 1858, ở thành Lộ-Đức bên Pháp, có một cô bé gái 14 tuổi, tên là Bênađêta đi kiếm củi trên rừng. Đến gần núi cô thấy một người nữ xinh đẹp hiện ra trên cửa hang. Người nữ ấy mặc áo trắng như tuyết, từ vai rủ xuống đến gót chân, chiếc thắt lưng màu xanh, hai múi rủ xuống đằng trước đến mắt cá. Đầu trùm khăn trắng rủ xuống đến gót chân, tay đeo tràng hạt.
Người nữ ấy đầy vẻ hiền hậu, nhân từ và vô cùng mỹ lệ. Bênađêta sợ hãi. Nhưng khi thấy Bà làm dấu thánh giá, thì Bênađêta quì xuống lần hạt.
Người nữ ấy hiện ra cùng Bênađêta trước sau 18 lần. Lần thứ 16, Bênađêta xin bà ấy tỏ mình là ai, thì bà ấy trả lời; ta là Đấng chẳng hề mắc tội truyền. Bấy giờ Bênađêta và mọi người mới biết ấy là Đức Mẹ. Đức Mẹ truyền cho Bênađêta trình cha xứ Lộ-Đức xây đền thờ kính Người ở đấy, rước ảnh Người quanh sườn núi và cho một suối nước chảy ra ở hang núi ấy. Bệnh nhân các nơi kéo đến uống và tắm nước ấy đều được khỏi. Hiện nay người các nước đua nhau đến viếng hang đá Lộ-Đức. Số bệnh nhân được Đức Mẹ chữa khỏi, vì uống hay tắm nước suối Lộ-Đức kể rất nhiều.
|
NGÀY MỒNG 3
×
Ngày Mồng Ba
Về tên cực trọng Đức Mẹ
Trên trời dưới đất, đừng kể tên Chúa Giêsu, thì chẳng có tên nào trọng, đáng kính và linh ứng cho bằng tên Đức Mẹ. Thánh Hiêrônymô nói rằng: “Tên Maria chẳng phải cha mẹ hay người thế gian đặt cho Người, nhưng chính Thiên Chúa soi lòng ông thánh Gioan-kim và bà thánh Anna đặt tên ấy cho Mẹ Maria”.
1. Maria có nhiều nghĩa:
Maria là Chúa, là Nữ-vương. Kỳ thực nghĩa ấy xứng hợp với Đức Mẹ, vì Mẹ là Nữ-vương trên trời, các Thiên Thần và các thánh.
Mẹ là Nữ-vương trên trời vì ngày Mẹ lên trời, Chúa đã phong cho Người làm Nữ-vương mọi loài.
Mẹ là Nữ-vương dưới đất, vì Chúa Giêsu là Vua mọi nước thế gian, Đức Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu thì cũng là Nữ-vương các nước thế-gian. Vả lại trên thế-gian, mọi người đều nhận Đức Mẹ làm Nữ-vương, và cậy nhờ phó thác trong tay Mẹ.
2. Maria là biển đắng; nghĩa ấy cũng xứng hợp Đức Mẹ, vì Mẹ là Mẹ sầu bi, Mẹ đã chịu mọi khổ cực để chung phần cứu chuộc nhân loại. Xưa Adong và Evà đồng tình phạm tội làm hư cả loài người, thì Chúa Giêsu và Đức Mẹ đã cùng nhau cộng tác trong việc cứu chuộc nhân loại.
3. Maria là sao Bắc-Đẩu: Sao Bắc-Đẩu dẫn lối cho kẻ vượt biển về bến. Đức Mẹ dẫn đưa chúng ta qua biển thế gian về đến thiên đàng.
Ngoài biển, nhờ sao dẫn lối người ta không phải sa chìm siêu bạt. Ngoài biển thế gian, nhờ Mẹ phù giúp, ta được bình an về tới bến.
4. Maria, một tên rất linh ứng, Thánh Phaolô gọi tên Chúa Giêsu là tên cực mầu nhiệm, quyền phép vô cùng. Tên Đức Mẹ cũng vậy. Nghe tên Maria, các thánh trên trời đều vui mừng, ma quỉ đều khiếp sợ Người, thế gian được cậy trông.
Tên Maria là võ khí hiệu lực, là thuẫn vững chắc, bênh chữa ta khỏi thù địch hãm hại hồn xác. Biết bao kẻ ngoài biển hằng bị phong ba vùi dập, biết bao kẻ hầu bị sa tay thù địch, đã thoát khỏi vì đã tin tưởng kêu tên Maria.
Biết bao kẻ hầu siêu lòng trước những cơn cám dỗ mãnh liệt, đã được thành tâm xám hối, vì đã tin tưởng kêu tên Maria. Trên giường bệnh, trong cơn hấp hối, người ta được mạnh sức cậy trông Chúa, khỏi bị ma quỷ khuấy khuất, vì đã tin tưởng kêu tên Maria.
Lạy Mẹ rất thánh Maria! Tên Mẹ quyền phép linh ứng dường nào! Tên Mẹ có quyền mở cửa thiên đàng hay đóng cửa hỏa ngục lại, tên Mẹ có quyền buộc trói ma quỷ và ban mọi ơn lành cho người thế. Chúng con trách mình vì xưa nay chẳng năng kêu tên cực trọng Mẹ, chúng con quyết cố gắng năng tin tưởng kêu tên Mẹ. Chúng con đã thoát bao cơn nguy hiểm, chúng con đã chống trả được bao chước cám dỗ, chúng con đã tránh được nhiều tội và được nhiều ơn lành xác hồn tất cả vì Mẹ. Chúng con dốc lòng từ nay năng kêu tên Mẹ lúc khỏe mạnh nhất là khi hấp hối trên giường bệnh.
Thánh Tích:
Bên Ý có một cô gái dọc đường giữa một nơi xa vắng, bắt gặp một tên cướp. Tên cướp ấy có tiếng là hung hãn và đã đoạt của cùng giết nhiều người.
Giữa lúc bơ vơ không ai cứu chữa, cô sợ hãi khiếp kinh. Giáp mặt cô, tên cướp bảo rằng: “Cô hãy nghe ta, bằng không ta sẽ giết”.
Trong cơn nguy khốn, cô chợt nhớ đến Đức Me, liền kêu tên cực trọng Maria, cô lạy tên cướp và xin vì Đức Mẹ mà tha cho mình.
Tên cướp nghe nói đến Maria thì dừng lại, nghĩ một lúc rồi bảo cô ta: “Được, vì Đức Mẹ mà ta tha chết cho cô, nhưng xin cô nhớ cầu cùng Đức Mẹ cho ta với”.
Ta xem tên cực trọng Đức Mẹ linh ứng dường nào, tên cướp định hãm hại cô gái, nhưng vừa nghe tên cực thánh Đức Mẹ liền đổi lòng, chẳng những tha cho cô ta, mà lại đưa cô ta qua quãng đường cheo leo ấy nữa.
|
NGÀY MỒNG 4
×
Ngày Mồng Bốn
Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa
1. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, vì Người đã sinh Đấng phép tắc vô cùng, dựng nên muôn vật, đã cưu mang Đấng cao cả, trời đất chứa chẳng hết, đã ẵm bế Đấng lấy ba ngón tay nâng nổi cả trời đất. Ôi! chức làm Mẹ Thiên Chúa cao trọng dường nào! Thánh Bernadinô quả quyết rằng: “Chức ấy trọng hơn mọi chức, chỉ kém một Thiên Chúa”.
Giáo-hội thêm rằng: “Chẳng ai suy thấu chức cao cả của Mẹ Thiên Chúa”.
Thánh Tômasô còn quả quyết mạnh hơn khi Ngài nói: “Chức Mẹ Thiên Chúa là một chức vô cùng cao cả, loài người chẳng tìm chức nào trọng hơn. Thiên Chúa dù toàn năng cũng không thể dựng nên chức nào trọng hơn chức ấy”.
Thiên Chúa có thể dựng nên trời cao hơn, đất mênh mông hơn, nhưng không thể dựng nên Mẹ cao trọng hơn Đức Mẹ được. Đức Mẹ đã hiểu thấu ơn rất trọng đó, nên khi gặp Bà thánh Isave, Người đã ca tụng rằng: “Thiên Chúa toàn năng đã ban cho tôi một chức cao trọng”. .
Có một Đức Chúa Cha, Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse được gọi Chúa Giêsu là Con mình mà thôi. Đức Chúa Cha đã sinh ra Đức Chúa Con trong trí Người từ trước vô cùng như Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu ở thế gian. Các thiên thần, các tổ phụ, các tiên tri và mọi vị thánh trên trời đều là tôi tớ của Thiên Chúa. Chỉ mình Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Vì thế ta biết Đức Mẹ trọng hơn thiên thần và các thánh dường nào. Chức làm Mẹ Thiên Chúa, là nguồn ơn lành Chúa ban cho Đức Mẹ vì từ trước vô cùng Chúa chọn Người làm Mẹ Chúa Giêsu, đã tách biệt Người ra khỏi con cái Adong, giữ Người khỏi mắc tội truyền, và ban cho Người tràn đầy ân phúc ngay từ khi mới dựng thai trong lòng Mẹ.
Vì Đức Mẹ là Mẹ Chúa Trời, nên Người toàn vẹn khiết trinh. Vì Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nên Người là Nữ-vương trời đất.
2. Chức Mẹ Thiên Chúa cao trọng dường nào! Vậy ta phải tôn kính Đức Mẹ cho xứng đáng chức rất cao trọng ấy. Xưa nay ta đã kính trọng Mẹ Chúa thế nào? Ta mang áo hay đeo ảnh Đức Mẹ, tỏ lòng tôn kính Người chăng? Có vào hội Mân-côi, có siêng năng lần hạt chăng? Những ngày lễ Đức Mẹ ta có làm việc lành, xưng tội rước lễ, lần hạt và dâng mình cho Đức Mẹ chăng? Trong những ngày rước tượng Mẹ ngày dâng hoa kính Mẹ, ta có thông công sốt sắng làm những việc ấy không? Ta có ra sức bắt chước các nhân đức của Mẹ, ở khiêm nhường, giữ lòng thanh sạch, hết lòng mến Chúa yêu người chăng?
Nếu chưa bao giờ ta làm những việc ấy, đó là dấu ta chưa đủ lòng yêu mến Mẹ cho xứng chức Mẹ Thiên Chúa.
Lạy Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, chức Mẹ thật cao cả vô cùng quí trọng. trên trời dưới đất trừ Thiên Chúa Ba Ngôi, chẳng có ai trọng hơn Mẹ. Xưa nay chúng con chưa đủ lòng mến yêu Mẹ. Nhưng từ nay chúng con quyết định hết lòng tôn sùng cậy trông Mẹ. Chúng con ra sức bắt chước Mẹ, ở khiêm nhường, giữ lòng sạch sẽ, hết lòng Mến Chúa yêu người. Xin Mẹ cho chúng con thêm lòng mến yêu và noi gương Mẹ đến trọn đời.
Thánh Tích:
Đức Mẹ là Mẹ Thiên-Chúa, nên ta phải tôn sùng Người cho xứng chức cao trọng ấy. Các thánh dạy: có nhiều khi Chúa dung thứ cho những kẻ phạm đến Chúa, nhưng chẳng dung thứ cho kẻ phạm đến Đức Mẹ.
Năm 1649, quân đội Đức chiếm đóng một làng nhỏ bên nước Pháp. Có mấy người lính chơi bời suốt đêm, một trong những người ấy thua bạc tức giận, chửi rủa mọi người. Thấy một ảnh Đức Mẹ treo trên tường, liền nói nhiều điều phạm đến Đức Mẹ, rồi xé rách ảnh và giầy đạp dưới chân.
Bỗng chốc nó bị ngã vật xuống, cả thân co quắp đau đớn, vật vã suốt đêm ngày. Đến ngày thứ 5, quân lính nhổ trại, người ta vực anh ta lên ngựa. Dọc đường anh ta bị ngã, miệng sùi bọt, răng cắn lại, được một lát thì chết khốn nạn. Người ta đều tin thật anh bị Chúa phạt vì đã xúc phạm đến Đức Mẹ.
|
NGÀY MỒNG 5
×
Ngày Mồng Năm
Đức Mẹ là Mẹ các giáo hữu
Ta thường gọi Đức Mẹ là Mẹ, nhưng chẳng phải là Mẹ phần xác, mà là Mẹ phần hồn. Đức Mẹ sinh ta phần hồn cũng như mẹ thế gian sinh ta phần xác.
Tội Adong đã làm cho loài người mất ơn cùng Chúa, mất sự sống linh hồn. Nhờ Ngôi Hai Thiên Chúa, loài người được sống lại về phần linh hồn. Vì thế Chúa Giêsu là Cha thật chúng ta về phần linh hồn. Nếu Chúa Giêsu là Cha thật chúng ta, thì Đức Mẹ cũng là Mẹ thật chúng ta.
1. Đức Mẹ là Mẹ các giáo hữu vì xưa Người đã vâng lời Sứ thần truyền, nhận chức làm Mẹ Chúa Giêsu.
Được ơn Chúa soi sáng, Đức Mẹ đã hiểu biết Con mình sinh ra sẽ chịu chết để cứu chuộc loài người. Vì thế Đức Mẹ vui lòng thưa lại cùng Sứ thần: “Tôi là tôi tớ của Thiên Chúa, tôi xin vâng lời Sứ thần truyền”.
Trong chốc lát, Người đã chịu thai Chúa Giêsu, và trong chốc lát, Người trở nên Mẹ Chúa Giêsu, cũng là Mẹ chúng ta về phần hồn. Khác một điều là Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu thật, như cưu mang con; còn chúng ta thì Mẹ cưu mang cách thiêng liêng trong tâm trí Người.
Đức Mẹ là Mẹ các giáo hữu, vì xưa trên núi thánh, Đức Mẹ đã dâng Con mình làm của tế lễ Đức Chúa Cha đền vì tội lỗi loài người.
Đức Mẹ là Mẹ các giáo hữu, vì xưa lúc Chúa hấp hối trên thánh giá, Đức Mẹ đã nhận chức làm Mẹ cả loài người.
2. Đức Mẹ là Mẹ ta, ta là con Đức Mẹ, còn vinh dự nào hơn! Còn ơn phúc nào hơn! Con phải nên giống Mẹ. Ta đã được phúc làm con Đức Mẹ, là Mẹ trinh khiết. Là con Đức Mẹ, ta phải xa lánh thói hư nết xấu, chớ theo tính xác thịt, ăn ở buông tuồng. Là con Đức Mẹ, ta phải trừ diệt những ước muốn xấu xa, những thèm muốn xác thịt lôi kéo ta vào vòng tội.
Là con Đức Mẹ, ta phải làm việc lành tôn sùng Đức Mẹ, hằng kêu xin Người phù hộ che chở ta trong mọi cơn gian nan.
Là con Đức Mẹ, ta phải hoàn toàn phó linh hồn và xác ta cho Đức Mẹ, để Mẹ ấp ủ nâng đỡ ta trong mọi bước đường ta đi. Ta phải tin thật rằng chẳng phải những ai kêu van: Lạy Đức Mẹ, lạy Đức Mẹ, mà được Người ban ơn đâu. Nhưng chỉ những ai thực lòng sùng kính Mẹ, ăn ở xứng đáng kẻ làm con, mới trông Người ban ơn phù hộ.
Lạy Mẹ nhân lành, Mẹ đã ưng nhận làm Mẹ Chúa Giêsu , cùng dâng Người làm của tế lễ Đức Chúa Cha đền vì tội thiên hạ, thì như Mẹ sinh ra chúng con phần hồn, và là Mẹ thật loài người chúng con. Lại xưa Chúa Giêsu hấp hối trên thánh giá, cũng đã trối Mẹ làm Mẹ chúng con. Mẹ đã nhận chúng con làm con, đã nâng niu ấp ủ chúng con, đã yêu thương chúng con như Mẹ thế gian yêu thương con mình. Xin Mẹ phù hộ chúng con ăn ở cho xứng đáng kẻ làm con Mẹ.
Thánh Tích:
Năm 389, dân Thessalô nổi ngụy phá tượng vua và giết các quan. Được tin ấy. Vua thịnh nộ sai quân giết hết mọi người trong thành ấy. Quan quân của vua đến thành Thessalô, lập mưu cho gọi loa mời dân sự đến xem trò ở chợ. Dân thành kéo đến đông đủ, quân lính liền bổ vây xông vào giết hết mọi người chẳng kỳ nam nữ, già trẻ, tất cả hơn bảy nghìn người. Trong số đó có một lão già với hai con trai giầu có sang trọng. Lính muốn tha cho cả ba cha con, nhưng sợ quan, không dám tha cả, anh ta bảo ông bố rằng: “Trong hai thằng này, ông muốn thằng nào sống thằng nào chết thì nói ngay”. Người cha lúng túng chẳng biết trả lời ra sao, vì ông thương cả hai con bằng nhau và ông biết rõ một lời ông nói có thể cứu được con này, nhưng lên án giết con kia. Ông chỉ còn biết ôm hai con mà khóc. Lính tức mình chém cả hai.
Trên núi Calvê, Thiên Chúa cũng nói cùng Đức Mẹ rằng: “Bà có hai con, con cả là Chúa Giêsu, con thứ hai là loài người. Trong hai con ấy, một con phải chết, vậy bà muốn con nào sống, con nào chết”.
Đức Mẹ tuy đầy lòng yêu Chúa Giêsu nhưng thấy cả loài người hư đi vì tội lỗi, Người bằng lòng để Chúa Giêsu chịu chết cho loài người được sống. Ôi Đức Mẹ thương loài người chúng ta dường nào! Đức Mẹ là Mẹ thật chúng ta, phải quyết chí mến yêu Người cho đến trọn đời.
Ta phải tin thật Đức Mẹ có quyền thế cao cả, vì Người là Mẹ Chúa Giêsu. Lời Người xin hiệu lực hơn các thánh. Người bầu cử cho ai kẻ ấy sẽ được.
Đức Mẹ có quyền thế, lại giầu lòng từ ái. Một khi Chúa Giêsu ban quyền thế cao cả cho Người, thì một trật ban cho Người giầu lòng từ ái. Tình yêu của Đức Mẹ đối với con cái Người bao la, hơn mọi tình yêu thế gian, Người yêu con mình hơn các mẹ thế gian.
Thánh Bênađô than thở ràng: “Ai suy thấu lòng Đức Mẹ yêu thương con cái! Tình Mẹ bao la hơn biển cả! Đức Mẹ yêu con mọi nơi, mọi thời đại! Người yêu chẳng những con hiền, con thảo, lại yêu cả những đứa con bất trung bất hiếu, những đứa con ngỗ nghịch”.
Thánh Anphongsô than thở rằng: “Lạy Mẹ, chớ gì Mẹ biết con đầy lòng mến yêu Mẹ: Mẹ hẳn chẳng yêu thương con bằng con yêu mến Mẹ”. Đức Mẹ hiện đến và quở trách dịu dàng rằng: “Ớ con, sao con nói vậy? Tình Mẹ thương con mênh mông như biển cả, con không thể ví được!”
Đức Mẹ yêu thương ta đến nỗi bằng lòng hy sinh Con một Người để cứu chuộc ta. Đó là lẽ để ta hiểu biết lòng Đức Mẹ thương yêu ta dường nào.
Lạy Mẹ, chúng con tin thật Mẹ có quyền thế lại giàu lòng từ ái. Xưa nay Mẹ chẳng hề từ bỏ con cái Mẹ, chúng con hết thảy là con cái Mẹ.
|
NGÀY MỒNG 6
×
Về quyền thế và lòng từ ái Đức Mẹ
Chúa Giêsu đã đặt Đức Mẹ làm Mẹ các giáo hữu, đồng thời đã ban quyền thế và từ ái cho Người.
Đức Mẹ rất có quyền thế trước mặt Thiên Chúa, vì Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Chức Người càng cao thì quyền thế người càng mạnh. Chúa Giêsu là Vua cả trời đất, được toàn quyền trên trời dưới đất, thì Đức Mẹ là Nữ-vương cũng được toàn quyền như vậy. Đức Mẹ cũng quyền thế như Chúa Giêsu, chỉ khác sự này: Chúa Giêsu tự mình vốn quyền thế cao cả, còn Đức Mẹ được quyền ấy ở nơi Chúa Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu đã ban quyền thế xứng đáng chức vị của Người. Nên Đức Mẹ quyền thế cao cả, muốn sự gì thì Chúa Giêsu cũng ưng cho.
Có một lần bà Thánh Brigitta nghe thấy Chúa Giêsu nói với Mẹ rằng: “Mẹ muốn sự gì, hãy xin thì sẽ được. Khi ở thế gian Con xin sự gì cùng Mẹ, Mẹ cũng cho. Ngày nay về trời Con từ chối Mẹ sao được! Mẹ muốn sự gì hãy xin thì sẽ được”.
Vì Đức Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, nên khi xin sự gì cùng Đức Chúa Giêsu thì như Mẹ truyền cho Con vậy. Vì xưa còn ở thế gian Người đã vâng lời Đức Mẹ, thì ngày nay ở trên trời Người cũng vâng lời Đức Mẹ như vậy. Xin Mẹ hộ giúp chúng con đang khi vượt biển thế gian, khỏi sóng gió bão táp và đưa chúng con về tới bến bình an.
Thánh Tích:
Đây là một tích chứng của ma quỉ về quyền thế cao cả của Đức Mẹ.
Thánh Đôminicô, ngày bắt đầu truyền bá phép lần hạt Mân côi trong nước Pháp, bị nhiều người phản đối một cách mãnh liệt. Họ cho là những kinh ấy chỉ dành riêng cho đàn bà con gái. Nhiều người tìm cách phá đổ. Ở Carcassô cũng có một người ra mặt phản đối ông thánh. Chẳng may anh ta bị quỉ ám, anh ta xông xáo mọi nơi đánh đấm mọi người, suốt ngày tru trếu lăn lộn.
Người ta bắt đem đến cùng thánh Đôminicô, xin người trừ quỉ. Thánh Đôminicô được dịp để làm sáng danh Đức Mẹ, người lấy tên Thiên Chúa mà hỏi quỉ rằng: “Trên trời, đừng kể Thiên Chúa Ba Ngôi, còn đấng nào mày sợ hãi hơn cả”. Quỉ liền tru trếu van lạy xin ông thánh ấy: “Người muốn biết thì tôi xin thưa cho mình người, chứ đừng bắt tôi xưng hô trước mặt công chúng, vì nguy khốn cho chúng tôi lắm”.
Thánh Đôminicô quỳ xuống nguyện rằng: “Lạy Mẹ, Mẹ truyền cho thần dữ này xưng ra điều con hỏi, để mọi người được biết”. Thần dữ lại xin người rằng: “Chúng tôi xin người đừng bắt buộc chúng tôi nữa. Chúng tôi chẳng nói người cũng đã biết; vả lại đã có thiên thần sẽ bảo người, chúng tôi chỉ là những kẻ dối trá”.
Thánh Đôminicô lại quỳ xuống cầu nguyện. Bỗng thấy Đức Mẹ hiện xuống. Thần dữ khiếp kinh kêu la: “Ớ thù địch, sao đến đây bắt chúng tôi xưng ra những điều làm nguy-khốn chúng tôi”. Rồi thần dữ lại la to hơn: “Ớ mọi người, hãy nghe lời này: Đức Mẹ rất thánh là Mẹ Thiên Chúa đủ quyền thế giữ gìn mọi người khỏi lửa hỏa ngục. Ai hết lòng sùng kính Người thì thoát khỏi tay chúng tôi. Nếu chẳng có Người, thì nhiều người đã phải hư đi. Người yêu thương và phù hộ cho những người siêng năng lần hạt Mân côi”. Nói đoạn, thần dữ ra khỏi người ấy. Người ta thấy thần dữ xưng hô quyền thế Đức Mẹ thì thêm lòng cậy trông kính mến Người, và siêng năng lần hạt hơn.
|
NGÀY MỒNG 7
×
Đức Mẹ bầu cử cho ta trước mặt Thiên Chúa
1. Đức Mẹ hằng dùng quyền thế cao cả Người bầu cử cho ta trước mặt Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã đặt Đức Mẹ làm Mẹ bầu cử cho ta, khi Người hấp hối trên Thánh Giá.
Đức Mẹ hằng bầu cử cho mọi người chẳng từ bỏ ai, dù tội lỗi. Người sẵn lòng xin cho người ta mọi ơn phần hồn, phần xác, miễn là người ta biết chạy đến kêu xin Người bầu cử.
Đức Mẹ nói cùng thánh Birgitta rằng: “Chẳng ai ở thế gian dù vô phúc thế nào, mà Mẹ chẳng thương yêu nâng đỡ”.
Xưa hoàng hậu Estêrê xin vua Assuêrô nhiêu sinh cho dân mình có một lần mà thôi, nhưng Đức Mẹ hằng xin cho ta mãi mãi.
Người xin ơn sám hối cho những tội nhân.
Người xin ơn an ủi cho người khổ cực.
Người xin ơn mạnh sức cho kẻ giao chiến.
Người xin ơn vững vàng cho kẻ nhân đức.
Người xin ơn cho mọi người, cậy trông kho vô tận của công nghiệp Chúa Giêsu, Con Người. Nhớ đền những đau-khổ của mình đã chịu. Nhớ đến những giọt máu cuối cùng của mình đã phải đổ ra, nhớ đến cái chết khổ nhục của mình trên thánh giá, lẽ nào Chúa Giêsu chẳng ban ơn cho người Đức Mẹ bầu cử.
Ôi ngày có phúc dường nào, ngày mà Thiên Chúa đã ban cho Mẹ quyền thế bầu cử cho loài người.
2. Đức Mẹ bầu cử cho ta nhất là khi ta hấp hối trên giường bệnh.
Giờ chết là giờ nguy hiểm nhất, là giờ giao tranh ác liệt giữa linh hồn và thần dữ. Thần dữ lợi dụng lúc ta yếu liệt tìm cách lôi ta theo chúng. Nhưng cũng là giờ Đức Mẹ săn sóc ta hơn hết. Người hằng ở bên giường ta để khuyên van, để an ủi, để nâng đỡ ta trước những cám dỗ của thần dữ. Đức Mẹ lại bầu cử cho ta trong thời giờ Chúa xét xử ta. Người bảo bà thanh Gertruđê rằng: “Mẹ nâng đỡ người ta trong lúc sống, Mẹ bênh vực họ trong giờ Chúa xét xử”. Còn ơn nào quí trọng cho bằng ơn Đức Mẹ phù hộ ta trong giờ chết và bênh vực ta lúc bị xét xử!
Lạy Mẹ Maria, là Mẹ nhân ái. Mẹ là Đấng bầu chữa chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con, khi sống được làm tôi Chúa cho xứng đáng, lúc chết đưọc chết lành trong tay Mẹ. Lại xin Mẹ bênh vực chúng con trước tòa Chúa xét xử, để chúng con được hưởng hạnh phúc cùng Mẹ đời đời.
Thánh Tích:
Đã hơn 500 năm nay, Hoàng đế Anh quốc đem quân chinh phục nước Pháp, Hoàng hậu cũng theo vua đi dự chiến. Hoàng đế hạ chỉ bao vây thành Calêsiô. Dân làng ấy phản kháng mãnh liệt. Cuộc bao vây kéo dài. Vì cạn lương thực, viên chỉ huy sai người đến xin hàng và đừng giết dân.
Vua phẫn nỗ vì đã phải giao chiến lâu ngày, phải hao binh tổn tướng, bắt phải nộp chìa khóa các cửa thành và cùng với sáu người cấp chỉ huy.
Sáu người tình nguyện hy sinh để cứu cả dân. Họ phục lậy trước Hoàng hậu, thảm thiết van xin: “Thưa bà, bà có quyền thế trước mặt hoàng đế. Xin bà cứu chúng tôi khỏi chết”.
Hoàng hậu động lòng thương, tâu vua rằng: “Thưa Hoàng đế, 6 người này đáng phải xử chết, nhưng xin Hoàng đế vì tôi, mà tha cho họ”.
Nghe lời Hoàng hậu nói, vua nguôi giận trả lời: “Được, Bà đã xin, thì tôi tha cho”.
Hoàng hậu đây là hình bóng chỉ Đức Mẹ.
Khi phạm tội đáng Chúa xử án chết đời đời, nhưng nhờ Đức Mẹ bầu cử, Chúa đã tha cho ta.
Ôi! Đức Mẹ quyền thế và thương yêu ta dường nào. Ta hãy tin tưởng ở Người.
|
NGÀY MỒNG 8
×
Trái tim Mẹ trọn hảo và đầy lòng từ ái
1. Trái tim Mẹ trọn hảo và rất đáng kính, vì là trái tim của Đấng làm Mẹ Thiên Chúa. Trái tim Mẹ rất thánh, vì là đền thờ của Thiên-Chúa Ba Ngôi ngự trị. Trái tim Mẹ rất thánh, vì Chúa Thánh Thần đã đổ đầy ơn từ ngày Mẹ mới dựng thai. Trái tim Đức Mẹ rất thánh vì Đức Mẹ đầy đủ mọi nhân đức.
Giáo hội ví: Trái tim Đức Mẹ như thánh điện, chứa đựng cả Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trái tim Mẹ như thánh đường nguy nga thanh sạch không một bụi nhơ.
Trái tim Mẹ là vườn rào kín, trong đó có đủ mọi thứ hoa xinh tươi không bao giờ tàn héo.
2. Trái tim Mẹ đầy lòng từ ái. Người thương yêu ta hơn mọi đấng thánh. Cũng như Đức Chúa Cha, Người vui lòng hy sinh Con một Người để cứu loài người. Trong kinh cầu trái tim Đức Mẹ ta thường đọc: “Trái tim rất thánh Đức Bà hay thương xót mọi người; hay yên ủi kẻ âu lo; hay bầu cử cho kẻ có tội và phù hộ cho kẻ lành”.
Trái tim Mẹ bốc cháy những ngọn lửa yêu đương. Một mũi gươm sắc thâu qua mở rộng thêm tình yêu của Trái tim Người để mọi người ẩn náu.
Một tràng hoa quấn chung quanh, tượng trưng những lời an ủi ngọt ngào phát ra từ trong tim Mẹ. Ai nhìn qua trái tim Mẹ mà chẳng cảm thấy tình yêu của Mẹ dạt dào lai láng?
Vậy ta phải hết lòng mến yêu trái tim Mẹ, năng cầu xin trái tim Mẹ cho kẻ có tội, cho kẻ khô khan ngoan cố: Trái tim Mẹ hay nâng đỡ những ai sa ngã, những kẻ lầm lạc.
Lạy trái tim Mẹ vẹn sạch rất thánh đầy lòng thương yêu loài người chúng con là những kẻ có tội, dám ngửa mặt xin trái tim Mẹ cho chúng con được thực lòng thống hối, cho chúng con bắt chước Mẹ, ăn ở liêm chính, giữ lòng thanh sạch. Xin Mẹ rộng mở trái tim cho chúng con ẩn náu, ẩn náu trong tình yêu Mẹ. Xin Mẹ thêm lửa mến trong lòng chúng con. Chúng con khao khát mến Chúa và Mẹ đời đời.
Thánh Tích:
Ở Ba-lê có một xứ gọi là xứ Đức Mẹ thắng trận. Ngày trước giáo dân xứ ấy rất khô khan, mê tiền của, mê chơi bời sống rất sa hoa. Tinh thần đạo hầu như mất hẳn. Cha xứ lo buồn, đêm ngày cầu xin cho con chiên biết đường trở về cùng Chúa. Năm 1836, đang khi người dâng lễ cầu xin cho những tội nhân ấy, thì nghe tiếng bảo rằng : “Hãy dâng con chiên mình cho trái tim vẹn sạch Đức Mẹ”. Hiểu biết lời Chúa dạy, cha đã dâng con chiên toàn xứ cho trái tim Đức Mẹ. Người khuyên bảo ít nhiều người hợp ý mà cầu xin trái tim Mẹ. Người lập hội Trái tim vẹn sạch Đức Mẹ trong xứ, ra sức cầu nguyện cho dân thành tội lỗi ấy được trở lại. Ít lâu sau, giáo dân xứ ấy đã trở nên rất sốt sắng hơn các xứ khác ở Ba-lê. Những kẻ có tiếng là tội lỗi đã dần dần hối cải, và được trái tim Mẹ thương ban nhiều ơn phần hồn phần xác. Từ đó, phong trào tôn sùng trái tim Mẹ càng ngày càng lan rộng trong các nơi.
|
NGÀY MỒNG 9
×
Đức Mẹ là gương mạnh tin
1. Khi Đức Mẹ đi thăm Bà Isave, Bà khen Đức Mẹ rằng: “phúc cho Bà vì Bà đã tin những điều Sứ thần”. Sứ thần truyền tin cho Người sẽ chịu thai và sinh con, nhưng người vẫn còn trinh khiết. Một sự mầu nhiệm cao cả vượt quá sức hiểu biết của loài người. Nhưng Đức Mẹ vẫn tâm niệm và tin theo lời ấy.
Thánh Ligoriô dạy: đức tin của Đức Mẹ vững chắc hơn đức tin của mọi người thế-gian, hơn đức tin của các thánh trên trời. Một trẻ nhỏ tiều tụy trong máng cỏ xưa , Đức Mẹ đã nhận biết đó là vua cả trời đất.
Dù Chúa Giêsu phải lánh sang nước Ai-Cập để thoát khỏi tay độc dữ của vua Hêrôđê, Đức Mẹ vẫn tin thật Con mình là vua cả toàn năng. Dù Chúa Giêsu sống như một thường dân trong xưởng thợ Nazareth, Đức Mẹ vẫn tin thật Con mình vừa là người vừa là Vua cả trời đất.
Dù Chúa Giêsu phải chết khổ nhục bên những tay trộm cướp, Đức Mẹ vẫn tin Con mình sẽ sống lại vinh hiển.
Lòng tin Đức Mẹ không hề nao núng trước những thử thách nặng nề. Những biến cố gặp trong đời, Đức Mẹ hằng để tâm suy niệm, không hề buông lời than trách.
Đức Mẹ hằng lấy đức tin làm tiêu chuẩn cho đời sống. Người sống theo đức tin, cho nên Đức Mẹ đầy tràn mọi nhân đức.
2. Phần ta thế nào? Ta có bắt chước Đức Mẹ, vững vàng tin theo cùng suy phục những mầu nhiệm trong đạo chăng? Có tin thật những điều Giáo Hội thay mặt Chúa dạy phải tin chăng?
Biết bao người Công giáo còn mê tín, còn tin ở thiên văn, địa lý, ở số, ở vạn, ở mồ mả đất cát, mà nghi nhờ những mầu nhiệm cao cả trong đạo. Họ tin như kẻ rối đạo.
Biết bao kẻ lúc được thịnh sự, thì đức tin vững vàng. Phải bước gian chuân, họ nghi ngờ, trách móc Thiên Chúa. Họ đổ xô đi xem bói, gieo quẻ. . . Đức tin của họ thật mong manh.
Đức tin là cội rễ mọi nhân đức. Kinh thánh dạy rằng: Ai thiếu đức tin, thì không thể đẹp lòng Thiên Chúa, và phải Chúa luận phạt.
Đức tin không việc làm là đức tin cằn cỗi.
Thánh Giacôbê nói rằng: kẻ tin mà chẳng làm theo đức tin, thì chẳng khác thần dữ tin. Nó tin nhưng chẳng giữ, nên phải luận phạt đời đời.
Nhiều người tin nhưng sống như kẻ không có đức tin. Họ tin có đời sau, có ngày xét xử, có thưởng phạt, có thiên đàng hỏa ngục, nhưng họ vẫn sống chìm đắm trong biển tội.
Họ tin mười giới răn Thiên Chúa, tin lề luật Giáo hội, nhưng họ vẫn bỏ trễ đạo, vẫn hiềm thù ghen ghét, vẫn lỗi phép công bằng vẫn mê theo xác thịt. Đôi khi họ làm được vài việc đạo đức, nhưng chỉ để phô trương để khoe mắt thiên hạ. Công việc của họ không đưa lại kết quả gì, vì đức tin của họ đã chết.
Vậy ta hãy xét đời sống của ta để biết rõ đức tin của ta thế nào: việc làm lời nói cách ta ăn ở sẽ chứng tỏ đức tin của ta.
Ta hãy bắt chước các thánh tông đồ kêu xin Chúa: “Lạy Chúa xin thêm đức tin cho tôi”.
Lạy Mẹ Maria, đức tin của Mẹ mạnh mẽ đáng nêu gương cho chúng con. Xin Mẹ bầu cử cho chúng con, được tin vững vàng những điều Chúa và Giáo-hội truyền. Gặp bước gian-nan khốn khó xin cho chúng con được vững lòng tin, không hề nao núng. Chớ gì đức tin, đem lại cho chúng con sự sống đời đời.
Thánh Tích:
Xưa bên Pháp có một cô gái 18 tuổi bỏ nhà ra đi nghe theo dục tình. Cha mẹ họ hàng bắt về, nhưng cô không nghe. Cô ta chơi bời được 10 năm, thì mắc bệnh thổ huyết. Bấy giờ cô mới tỉnh ngộ tìm về nhà, được ít lâu thì qua đời. Người ta thuật lại lúc cô ta nằm liệt trên giường bệnh. Thỉnh thoảng cô tỏ vẻ buồn sầu, đôi mắt ướt lệ, cô nức nở khóc. Cha mẹ hỏi cô tại sao khóc thì cô trả lời: “Tôi có đạo nhưng đời sống của tôi như người vô thần, như người mất đức tin. Mai ngày tôi đến trước tòa Chúa, sẽ bị Chúa xét xử thẳng nhặt, Đức tin chẳng làm ích gì cho tôi, một thêm hình phạt rất nặng cho tôi.
Ôi! Vô phúc cho tôi! giá như Chúa cho tôi sống được vài năm nữa, tôi sẽ làm hết mọi sự Chúa truyền dạy”.
Rồi cô ta lại nức nở khóc.
Trong giây phút cuối cùng, cô mới nhận rõ: Đức tin không có việc làm là đức tin cằn cỗi không sinh ích gì cho kẻ tin.
Phúc cho những ai tin các điều Chúa và Giáo hội truyền dạy, nhưng ai biết đem ra thực hành những đạo luật ấy mới là người Chúa yêu.
|
NGÀY MỒNG 10
×
Đức Mẹ là Mẹ cậy trông
1. Đức cậy bởi đức tin mà sinh ra. Đức Mẹ có lòng tin mạnh mẽ thì cũng có đức cậy vững vàng. Đức Mẹ đã chịu đau khổ rất nhiều: Người sầu khổ từ khi thánh Si-mê-ong báo cho biết cái chết khổ nhục của Chúa Giêsu sau này; nhưng dù cay cực thế nào, người hằng vững lòng cậy trông và phó thác nơi Chúa.
Vì Đức Mẹ đã biết: Thiên Chúa là Cha rất nhân từ, chẳng khi nào từ bỏ con cái thờ phượng Người. Khi đến ngày sinh mà không tìm được nơi trú, khi giữa đêm khuya phải trốn chạy sang Ai-Cập, khi Chúa Con chết treo trên thập giá, lúc nào Đức Mẹ cũng vững vàng cậy trông Thiên Chúa vô cùng nhân từ.
Lúc thiếu thốn vất vả phần xác, khi đau khổ tâm hồn, Đức Mẹ vẫn vui chịu mọi sự để lập công.
Nhờ lòng cậy trông vững vàng của Đức Mẹ, các tông đồ, các giáo hữu không hề sờn lòng nản chí trong cơn bắt bớ tàn phá đạo thánh Chúa, sau khi Chúa Giêsu đã về trời. Vì thế, trong kinh “Lạy Nữ-vương” đã xưng Đức Mẹ là “Đấng các bổn đạo cậy trông”.
2. Chẳng những Đức Mẹ làm gương cho ta về sự trông cậy vững vàng mà còn giúp những ai nản lòng được vững tâm trông cậy nữa, trong các tội, không có tội nào nguy hiểm và có thể hại ta bằng tội ngã lòng cậy trông Thiên Chúa.
Đó là tội Ca-in xưa tự bảo mình rằng: “Tội tôi nặng qúa, chẳng có lẽ nào Chúa tha cho tôi được”. Đó cũng là tội Giuđa xưa, sau khi bán Chúa, đã đi thắt cổ chết khốn nạn. Người mắc tội ấy khốn nạn hơn ai hết, vì nghĩ rằng : chẳng còn cách gỡ mình, cho khỏi được nữa.
Hỡi những ai mắc mưu ma quỉ, nản lòng cậy trông Chúa, hãy nhớ Đức Mẹ là Mẹ cậy trông. Xưa nay, biết bao người bắt chước Ca-in và Giuđa, nói rằng: “tội tôi nặng quá, Chúa không thể tha được”. Đáng thương thay!
Chúng ta hãy chạy lại cùng Đức Mẹ, Người là Mẹ nhân-từ của chúng ta, Mẹ chúng ta chỉ biết thương yêu mà không muốn oán phạt ai. Các thánh ví Đức Mẹ như tầu No-e: tầu No-e xưa cứu sống gia đình ông. Ngày nay Đức Mẹ cứu chúng ta khỏi hỏa ngục.
Trên đời, ta phải chịu đựng bao đau khổ, cố gắng, hy-sinh, phần hồn phần xác. Vậy hãy vui chịu, và phó dâng cho Chúa, và cậy trông vững vàng Chúa sẽ trả công vô cùng cho ta trên thiên đàng.
Lạy Mẹ, là Mẹ cậy trông xin giúp chúng con được lòng cậy trông Chúa vững vàng, để chúng con đủ sức chịu mọi gian lao khốn khó ở đời này, để lập công hưởng phúc đời sau. Amen.
Thánh Tích:
Hồi thánh Phanxicô còn thanh niên là một học sinh nết na đạo hạnh. Chúa để ma quỉ cám dỗ Người về sự nản lòng cậy trông.
Tự nhiên Người tự bảo: “Tội tôi nặng lắm, tôi đã mất nghĩa cùng Chúa, các việc lành tôi đều ra vô ích. Chắc chắn tôi sẽ bị thiêu đốt trong hỏa ngục”. Ý tưởng ấy luôn luôn ám ảnh người.
Dù đã lấy nhiều lẽ để chống trả lại ý tưởng ấy cũng vô ích. Người lấy sự ấy làm cay cực lắm! Lại có sự này càng làm cho người đau khổ hơn nữa là lòng ra khô khan nguội lạnh, chán nản việc thờ phượng.
Nhưng dù sao, Người không bao giờ bỏ các việc lành quen làm hằng ngày. Người lại luôn luôn kêu van và cậy trông vào Đức Mẹ, vì Người tin rằng Đức Mẹ chẳng hề từ chối ai. Người bị cám dỗ như vậy đã gần hai tháng, mà chẳng thấy giảm bớt chút nào. Một hôm, đi học về, qua cửa nhà thờ, người liền vào nhà thờ cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ. Người nguyện rằng: “Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin Mẹ đoái thương cứu chữa con khỏi cơn cám dỗ này”. Rồi người lần hạt, và hứa sẽ lần hạt kính Đức Mẹ mỗi ngày trong đời mình.
Cầu nguyện và khấn hứa đoạn, người cảm thấy bằng yên, vui mừng, không còn áy náy lo buồn, lại được tươi tỉnh khỏe mạnh phần xác như khi trước. Từ bấy giờ Thánh Phanxicô chẳng bị cám dỗ nản lòng cậy trông như xưa nữa. Suốt đời, người hằng nhớ ơn và cầu xin Đức Mẹ.Chớ gì hết mọi người chúng ta luôn luôn noi gương lành của Thánh Phanxicô như vậy.
|
NGÀY 11
×
Đức Mẹ làm gương mến Chúa
1. Theo thánh Bênađô, Đức Mẹ được lòng mến Chúa ngay từ khi còn trong lòng bà thánh An-na. Rồi lớn lên hằng giây phút lửa mến Chúa càng thiêu đốt trái tim Đức Mẹ ngày một nóng nảy hơn. Như vậy khi được làm Mẹ Chúa Giêsu thì biết người mến yêu Chúa là dường nào!
Các thánh dạy: lúc thụ thai, khi sanh đẻ Chúa Giêsu, lúc Chúa đi trốn, lúc lạc mất và khi tìm thấy Chúa, cũng như khi nhìn thấy Người vai vác thánh giá lên núi Can-vê, bấy nhiêu dịp đều làm cho Đức Mẹ gia tăng lòng mến Chúa. Đàng khác, mọi công việc Đức Mẹ làm đều qui về lòng mến Chúa, người hằng suy ngắm về Chúa, hằng trông thấy Chúa trước mặt, hằng kính mến Người chẳng khi ngơi. Vì thế lửa kính mến trong lòng Đức Mẹ ngày càng bốc cháy mạnh hơn.
Thiên hạ ca ngợi nhiều đấng thánh có lòng mến Chúa cách lạ lùng, đến nỗi các đấng sống được là nhờ có lửa yêu mến ấy hun đúc. Nhưng nếu so sánh cùng lòng mến yêu của Đức Mẹ thì chẳng khác tàn lửa sánh cùng bó đuốc lớn.
Lửa kính mến bốc cháy trong lòng Đức Mẹ mạnh sức đến nỗi nếu Chúa không giữ Người thì Người chẳng sống được vì vốn lửa kính mến mạnh sức làm cho người ta hao mòn kiệt sức đi dần dần.
Sau khi Chúa Giêsu về trời, tuy xác Đức Mẹ còn ở thế gian, nhưng lòng trí hằng đem về trời hợp cùng Chúa Giêsu và theo như nhiều thánh dạy: Đức Mẹ hao mòn héo hắt dần vì lòng mến Chúa, chẳng phải vì già nua hay bệnh tật gì. Ôi! cái chết êm ái hạnh phúc dường nào! Chớ gì ta được chết như vậy.
2. Có nhiều lẽ buộc ta kính mến Chúa: Trước hết vì Chúa là Đấng quyền phép cao trọng đã dựng nên và gìn giữ ta, đã sai Con một xuống cứu chuộc ta, hằng ban ơn giúp sức cho ta tránh tội làm lành, lại hứa ban phúc thiên đàng cho ta. Bấy nhiêu lẽ chưa đủ giục ta kính mến Chúa ư? Bấy nhiêu ơn trọng Chúa ban, chưa đủ để ép ta trả nghĩa ư. Vậy phải xét: xưa nay ta kính mến Chúa thế nào?
Lạy Mẹ Maria chúng con khô khan nguội lạnh mê tham của cải, vui hèn thế gian, chúng con còn kém lòng mến Chúa biết bao. Vậy lạy Mẹ, xin Mẹ hãy lấy tàn lửa kính mến trong lòng Mẹ để đốt cháy lòng chúng con kính mến Chúa và Đức Mẹ ở đời này và được yêu mến mãi mãi trên thiên đàng.
Thánh Tích:
Xưa trong nước Pháp, có một võ quan, cha mẹ mất sớm và chẳng được dạy dỗ gì về đạo Thiên Chúa, nên ông không biết gì về Thiên-Chúa, không thuộc kinh và cũng chẳng biết gì về kính mến Thiên Chúa nữa. Ông tòng quân từ lúc 18 đến 50 tuổi.
Lúc mãn khóa, ông về quê. Một hôm đi đường, ông vào trọ trong nhà người bạn đạo đức sốt sắng. Hôm sau là chủ nhật, người bạn rủ ông đi lễ, ông liền nhận lời, cốt đi cho đỡ buồn. Ông đến nhà thờ lúc bổn đạo đang làm việc kính Đức Mẹ và sau đó ông được nghe một linh mục giảng về lòng nhân lành của Đức Mẹ. Ông chú ý nghe và lấy làm vui lắm.
Chủ nhật sau, ông tự ý đi lễ cốt ý để nghe giảng về Đức Mẹ và xem ảnh tượng Người. Dần dần ông thấy lòng mình mộ mến Đức Mẹ. Nhờ lòng Đức Mẹ thương con chiên lạc, soi sáng cho ông ăn năn trở lại. Sau đó, ông xin học đạo. Ngày thứ năm tuần thánh năm ấy, ông được chịu lễ lần đầu. Linh mục giải tội cho ông kể lại rằng: “Cách ông khiêm nhường hối cải làm tôi cảm động không cầm được nước mắt”. Xưng tội chịu lễ xong, ông thấy bằng yên vui mừng quá và kêu lên rằng: “Ôi! tôi không ngờ đạo Thiên Chúa êm ái và làm cho người ta hoan lạc dường nào. Ôi ! bấy lâu không theo đạo thì tai hại biết bao!”
Từ đấy ông giữ đạo rất sốt sắng và hằng cảm tạ Đức Mẹ liên cho đến trọn đời.
|
NGÀY 12
×
Đức Mẹ làm gương đức yêu người
1. Đức mến Chúa và yêu người phát sinh bởi một nguồn gốc.
Hai nhân đức ấy là như hai chị em ruột luôn luôn đi liền nhau. Vì thế, ai có lòng mến Chúa thì cũng có đức yêu người. Các thánh xưa nay, vì lòng mến Chúa đã từ bỏ cha mẹ quê quán, của cải thú vui thế gian đến nơi xa lạ để cứu linh hồn người ta.
Các đấng ấy có lòng mến Chúa, thì cũng có lòng yêu người. Phương chi Đức Mẹ kính mến Chúa hơn mọi thần thánh và nhân loại thì biết Đức Mẹ yêu người ta dường nào!
Cứ bản tính tự nhiên, Thiên Chúa phú cho người mẹ lòng yêu con rất bao la, dù là đứa con rất ngỗ nghịch. Đức Mẹ là Mẹ Chúng ta, Người đã nhận chúng ta là con, thì đức Mẹ không thương yêu chúng ta sao được. Nếu Người không thương yêu ta thật, thì khi đứng dưới chân Thánh giá Người đã chẳng nhận chúng ta làm con và sau khi về trời, Người chẳng có bầu cử cho ta trước mặt Chúa sao?
Thánh Inhaxu tử đạo nói: “Khi Đức Mẹ còn sống ở thế gian, Người đã tỏ lòng thương yêu người ta hết sức. Thấy ai phải đau khổ ốm đau coi như chính mình phải những nỗi khổ sở ấy. Ai gặp sự rủi ro, Người liền thăm viếng yên ủi và cầu cho người ấy”.
Ở thế gian mà Đức Mẹ đã thương yêu loài người chúng ta dường ấy, phương chi bây giờ Người đang hưởng hạnh phục vì có quyền cao chức trọng trên trời, lẽ nào chẳng thương xem giúp đỡ chúng ta hơn.
2. Theo gương Đức Mẹ, ta hãy thương yêu người đồng loại như chính mình ta. Ta hãy yêu người ta vì Thiên Chúa. Ta hãy thương yêu những kẻ túng nghèo, đau khổ, tàn tật, hãy thương yêu người thù địch của ta. Vì mọi người đều là con Thiên Chúa. Ta hãy thương yêu thật trong lòng, trong việc làm, trong lời cầu nguyện.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ thương yêu chúng con quá bội. Vì thương yêu, Mẹ đã phế Con rất yêu quý Mẹ chịu chết để cứu chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con hiểu giá trị của đức yêu người, để chúng con noi gương Mẹ mà thương yêu mọi người vì lòng kính mến Chúa.
Thánh Tích:
Truyện này do thánh Ligoriô kể. Phúc, một cô gái xinh đẹp nết na đạo hạnh, xin vào tu dòng. Chị làm gương tốt cho chị em, nhất là lòng mến Đức Mẹ. Mẹ bề trên thấy chị là người đạo đức hơn ai thì trao công việc giữ nhà thờ cho chị. Chị Phúc ngày thêm nhân đức và lòng mến Chúa yêu người.
Bấy giờ có một chàng thanh niên sang trọng hay vào nhà thờ đọc kinh cầu nguyện. Chàng thấy chị Phúc xinh đẹp nết na thì đem lòng luyến ái. Từ đó chàng dùng dịp đọc kinh để được xem thấy chị Phúc, lại cố tìm để gần gũi trò chuyện với chị nữa.
Ban đầu chị Phúc thấy chàng thanh niên đó nhìn ngắm mình, thì lấy làm khó chịu và khinh ghét lắm, nhưng dần dần xiêu lòng và liều mình trò truyện cùng chàng nọ. Chẳng bao lâu, 2 bên yêu nhau, quyết đem nhau đi nơi khác.
Khi chị Phúc sắp trốn nhà dòng thì đem chìa khóa nhà thờ để dưới chân tượng Đức Mẹ rồi quỳ gối thở than rằng: “Lạy Mẹ nhân lành xin Mẹ thương tha thứ sự bội bạc của đứa con tội lỗi này. Con không đáng làm con Mẹ nữa, đây con trao trả chìa khóa, áo nhà dòng và mọi việc làm cho Mẹ”. Rồi chị mở cổng ra đi theo tiếng gọi của dục tình.
Nhưng khốn thay hoan lạc thế gian thật mau tan như mây khói . Cặp uyên ương ấy đưa nhau đi ở một phương xa, tận hưởng vui sướng xác thịt được 15 năm thì lại chán ghét nhau.
Một hôm Phúc ra chợ gắp bà mua bán cho nhà dòng xưa (Phúc biết bà ta mà bà ta không nhận ra Phúc). Phúc liền hỏi: “Thưa bà, bà có biết chị Phúc không?” Có, bà kia đáp, tôi quen biết chị ấy đã lâu: chị ấy là người đạo đức nhất nhà dòng, hiện nay chị đang giữ việc coi nhà thờ, mở cửa cho người ta vào cầu nguyện. Phúc nghe nói rất bỡ ngỡ, định tâm tàng hình trở về nhà dòng xem hư thực thế nào?
Lúc đến nhà dòng, cô Phúc nói với người gác cổng: “Bác làm ơn cho tôi gặp chị Phúc”. Chờ một lát, người gác cổng trở ra nói với Phúc rằng: “Cô Phúc sắp ra đấy”, rồi y trở vào. Bấy giờ Phúc trông lên, thấy Đức Mẹ ăn vận như tượng Đức Mẹ trong nhà thờ lúc chị trao chìa khóa, áo nhà dòng mười lăm năm về trước. Thấy thế, chị sợ hãi bối rối quá, nhưng Đức Mẹ bảo rằng: “Phúc con ơi! Đã 15 năm nay, con bỏ nhà dòng, Mẹ đã phải trá hình làm mọi việc thay cho con, để giữ tiếng tốt cho con, và bây giờ con hãy lấy chìa khóa, nhà dòng này và lại tiếp tục công việc xưa. Con hãy ở lại trong nhà dòng mà ăn năn sửa mình lại, Chúa sẵn lòng tha thứ cho con; con hãy an lòng, tội con chưa ai biết cả”. Nói đoạn Đức Mẹ biến đi.
Chị Phúc thấy Đức Mẹ thương mình dường ấy, thì vui mừng nước mắt ràn rụa và quyết tâm vâng lời Đức Mẹ trở vào dòng và từ đấy hằng ăn năn đền tội mình cho đến chết. Lúc hấp hối, chị tỏ mọi sự trước sau để thiên hạ muôn đời ca tụng lòng nhân lành Đức Mẹ đối với loài người. . .
|
NGÀY 13
×
NGƯỜI CON CƯNG
Đức Mẹ là Mẹ Trinh Khiết
1. Thời Đức Mẹ, người đời khinh chê người giữ mình khiết trinh. Các thiếu nữ Do thái đều kết bạn cả, và ai không có con thì người đời cho là hạng người bất hạnh. Vì Chúa Giêsu chưa xuống thế dạy cho người ta biết quí trọng đức trinh khiết.
Khi Đức Mẹ ở trong đền thờ Giêrusalem, nhờ Chúa soi sáng. Người hiểu nhân đức ấy rất trọng và đẹp lòng Chúa, nên dù thiên hạ chê cười, Đức Mẹ cũng quyết khấn giữ mình khiết trinh trọn đời.
Vì thế, thánh Bônaventura gọi Đức Mẹ là Đấng tiên phong các thánh trinh khiết vì Người khấn giữ mình trinh khiết trước hết mọi người. Người qúi trọng nhân đức này đến nỗi thà mất chức làm Mẹ Con Thiên Chúa chẳng thà mất đức trinh khiết. Khi Sứ thần Gabiriê truyền tin Người sẽ thụ thai sinh đẻ Chúa Giêsu, thì Người không vui mừng ngay và cũng không nhận lời Sứ thần nhưng Người thưa rằng: “Tôi đã khấn giữ mình khiết trinh, thì còn chịu thai và sinh con làm sao được?”
Sứ thần thưa lại: “Bà thụ thai sinh con không theo thói tục của người đời, nhưng bởi phép Chúa Thánh thần, nên dù sinh con, bà vẫn còn đồng trinh”.
Đức Mẹ mới ưng nhận và đáp lại: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi vâng lời Sứ thần truyền”.
Để ca ngợi Đức Mẹ Trinh Khiết, Giáo hội đã mượn lời thánh kinh: “Maria, Mẹ tốt đẹp mọi bề, Mẹ chẳng vương bóng tội; Mẹ đẹp hơn ánh trăng, sáng hơn mặt trời. Mẹ là huệ trắng mọc giữa bụi gai”.
Chẳng những Đức Mẹ trinh khiết hơn mọi người thế gian mà còn hơn các thiên thần, vì thế Ngôi Hai Thiên Chúa đã chiếm lòng Người làm bàn thờ ngự chín tháng tròn.
2. Thánh Augustinô nói: “Người trinh khiết sẽ là thiên thần dưới đất”. Thiên Chúa không buộc ai ở trinh khiết nhưng buộc hết mọi người giữ đức ấy trong bậc mình, người ở bậc vợ chồng, phải giữ nghĩa vợ chồng cùng nhau ăn ở cho xứng đáng là con cái Chúa, đừng theo xác thịt ăn ở như loài vật.
Bấy lâu nay, ta có giữ đức sạch sẽ trong bậc mình không, biết bao lần ta mê theo xác thịt, làm dơ bẩn linh hồn. Vậy ta hãy quyết tâm hối cải và thưa cùng Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, Nữ vương các thánh trinh khiết, gương mẫu những ai muốn giữ nhân đức trinh khiết. Xin Mẹ giúp chúng con kìm hãm xác thịt, để chúng con giữ linh hồn trong trắng đáng làm con Mẹ ở đời này và đời sau vô cùng.
Thánh Tích:
Nhân dân sống hai bên chân núi An-pơ (Alpes) là những người hiền lành, ngay thẳng, đạo đức. Hồi hai nước Pháp và Áo giao chiến dân này phải khổ sở thiệt hại rất nhiều. Đàn bà phụ nữ phải ẩn tránh vào rừng núi cho khỏi quân giặc hãm hiếp. Maria, một cô gái 18 tuổi, chưa kịp trốn đi, bỗng có quân Áo xông vào nhà định bắt. Cha của Maria chạy ra ngăn cản bị chúng đâm chết tại chỗ. Maria sợ hãi, thà chết chẳng thà thất trinh, chạy lên một ngọn đồi. Thấy quân giặc tróc nã đến gần hết đường trốn chạy. Maria cậy trông Đức Mẹ, ngước mắt nhìn lên trời và nguyện rằng: “Lạy Mẹ Maria, Nữ vương các thánh trinh khiết, xin cứu thoát con”. Nói đoạn, Maria tự đỉnh đồi gieo mình xuống. Quân giặc thấy cô gái liều thân như vậy thì kinh sợ. Chúng ngỡ rằng Maria vỡ đầu gẫy cỗ, nát thịt gẫy xương.
Ôi! ngợi khen lòng nhân lành Đức Mẹ chẳng bỏ lời những ai cậy trông Người. Quân giặc phải bỡ ngỡ biết mấy, khi nhìn xuống chân đồi, thấy Maria đang bình tĩnh quì gối cầu nguyện. Thấy sự lạ lùng làm vậy, chúng về trại, chúng kể lại phép lạ chính mắt đã thấy cho anh em đồng ngũ nghe. . . Nhờ vậy, từ hôm ấy quân lính Áo không đi hãm hiếp dân chúng nữa.
Còn Maria, tạ ơn Đức Mẹ đoạn, cô liền vào đồn lính Pháp kể sự lạ Đức Mẹ đã cứu mình. Ai nấy đều ca ngợi Đức Mẹ và xây một bàn thờ ở chân đồi chỗ Maria gieo mình xuống, để ghi dấu muôn đời lòng nhân từ Đức Mẹ đối với con cái trông cậy Người.
|
NGÀY 14
×
NHẸ NHƯ BÔNG
Đức Mẹ làm gương đức khó khăn
1. Từ thuở nhỏ, Đức Mẹ đã hiểu biết giá trị đức khó khăn, nên Người khấn giữ nhân đức ấy từ lúc còn thơ ấu. Theo linh mục Casiniô: Đức Mẹ thuộc dòng họ vua Đavit, nên Người dâng vào đền thờ và làm phúc cho kẻ khó khăn, chỉ giữ lại một phần nhỏ để nuôi mình.
Chính Đức Mẹ đã nói sự ấy cho chị Brigitta rằng: “Mẹ đã khấn giữ đức khó khăn từ thuở nhỏ, của cải cơ nghiệp ông cha để lại, Mẹ đã phát cho người nghèo khó cả”.
Thánh Giuse, bạn Người cũng là người khó khăn. Vàng bạc ba vua dâng lúc sinh Chúa trong hang Be-lem, Người cũng dùng để giúp đỡ người nghèo đói.
Khi dâng Chúa Con vào đền thờ, Đức Mẹ theo thói người túng nghèo, lấy đôi chim câu để chuộc con.
Chẳng những Đức Mẹ không xấu hổ, không giấu mà còn muốn người đời biết mình là người nghèo khó nữa.
Lúc sinh Chúa Giêsu, khi đem Người trốn, Đức Mẹ đã chịu thiếu thốn mọi sự.
Sau khi Chúa về trời, Đức Mẹ sống một đời thiếu thốn với môn đệ Gio-an. Khi chết chỉ có áo cũ chối lại cho chị em họ mà thôi.
2. Người đời hay miệt thị khinh chê người nghèo đói. Tục ngữ rằng: “Người đời chuộng của chuộng công. Nào ai có chuộng tay không bao giờ”.
Thật, chẳng nhân nghĩa gì hơn nhân nghĩa tiền.
Thói đời thì thế, nhưng Chúa Giêsu, là Chúa của mọi vật thì trái hẳn lại. Người phán: “Phúc cho người khó khăn, vì Thiên đàng là của họ”.
Chẳng những Chúa khen cùng chúc phúc cho người khó khăn mà chính Chúa đã sống cuộc đời khó khăn hơn ai hết, từ khi sinh trong hang đá Belem, đến lúc chết gục trên thánh giá, không còn một tấm vải che thân.
Vậy nếu ta gặp bước khó khăn, ta hãy lấy làm vinh dự vì được sống cuộc đời như Chúa và Đức Mẹ xưa. Hơn nữa ta hãy xem, biết bao đấng thánh đã từ biệt phú quí sang trọng để sống cuộc đời nghèo khó noi gương Chúa và Đức Mẹ.
Nếu Chúa ban cho ta giầu có dư dật, ta đừng đem lòng trìu mến quá lẽ. Hãy dùng nó mà giúp đỡ kẻ bần hàn, Hãy dùng nó như chiếc thang giúp ta bước lên thiên đàng. Ai làm phúc cho người nghèo khổ, ấy là cho Thiên Chúa vậy, sau này Chúa sẽ trả lại bội hậu trên thiên đàng.
Lạy Mẹ, xin Mẹ giúp chúng con sống cuộc đời khó khăn, không mê tham của cải hư hèn, một biết dùng nó cho đẹp lòng Chúa và giúp ích cho hồn và xác chúng con.
Thánh Tích:
Có nhiều tích chuyện làm chứng Đức Chúa Giêsu trá hình làm người hành khất.
Hồi thánh Mactinô còn thanh niên và chưa trở lại đạo: thời kỳ tại ngũ, đóng ở tỉnh Ambianô (nước Pháp), gặp một người hành-khất tả tơi. Y xin Mactinô chiếc áo vì đang mùa đông giá lạnh, Mactinô thấy y rét run cầm cập khốn nạn quá, động lòng thương. Nhưng tiền không có, Mactinô liền tuốt gươm cắt đôi áo đang khoác cho y một nửa.
Đêm sau, lúc đang ngủ, Mactinô thấy Chúa Giêsu mặc nửa chiếc áo khoác, đã cho người hành khất hôm trước, hiện ra cùng mình có các sứ thần chầu chực chung quanh. Đồng thời nghe thấy Chúa nói cùng sứ thần: “Nửa áo này, là của Mactinô, bổn đạo mới, chưa rửa tội đã cho ta đấy”. Nói đoạn Chúa biến đi.
Bấy giờ, Mactinô hiểu biết ngay: làm phúc cho người nghèo khổ cũng là như giúp đỡ chính Chúa Giêsu vậy.
Sau đó nhờ ơn Chúa giúp, Mactinô chịu rửa tội, rồi từ biệt thế gian dâng mình cho Chúa sau làm giám-mục, khuyên được nhiều người trở lại đạo. Mactinô sống thánh thiện, sau được phong thánh và làm nhiều phép lạ.
Ngày xưa, Đức Giáo-hoàng Grêgôriô Cả và thánh Lu-y, vua nước Pháp có lòng thương yêu người nghèo khó lắm. Cứ ngày thứ bẩy các ngài dọn tiệc cho họ ăn mà chính mình giúp bàn như tôi tớ.
Phần chúng ta có hết tình thương giúp kẻ nghèo khổ không?
|
NGÀY 15
×
Đức Mẹ làm gương việc cầu nguyện
Đức Mẹ làm gương việc cầu nguyện
1. Ta có thể nói: Đời Đức Mẹ là đời cầu nguyện liên lỉ. Các việc Đức Mẹ làm bề ngoài không ngăn trở cho việc cầu nguyện. Lúc thức lúc ngủ, khi vui khi buồn, không lúc nào Đức Mẹ thôi lòng trí về Thiên Chúa.
Hồi lên 3 tuổi, Người dâng mình trong đền thờ cho dễ đọc kinh cầu nguyện đêm ngày. Khi Sứ thần truyền tin cũng là lúc Đức Mẹ đang cầu nguyện. Lúc Chúa Giêsu sống lại đến yên ủi Đức Mẹ thì cũng là lúc Người đang cầu nguyện. Lại khi Chúa Thánh Thần hiện xuống thì Đức Mẹ cũng đang cùng các tông đồ cầu nguyện nữa.
Đức Mẹ đã cầu nguyện sốt sắng trong hang lừa Be-lem, trong đền thờ, trong nhà Nazaret, lúc đứng dưới chân thánh giá. Hiện nay, ở trên trời, Đức Mẹ cũng không ngừng cầu nguyện cho Giáo Hội và các con cái Người. Đức Mẹ cầu nguyện rất sốt sắng. Các thánh dạy: Khi Đức Mẹ cầu nguyện, mặt Người sáng láng như ông Maisen xưa lúc ở trên núi Sinai mà xuống vậy.
Vì Đức Mẹ khiêm nhường và cậy trông vững vàng nên Người xin sự gì thì được sự ấy.
2. Thánh Augustinô nói: “Sự cầu nguyện là chìa khóa mở cửa thiên đàng”. Thánh Ligoriô lại quả quyết: “Ai cầu nguyện, sẽ rỗi linh hồn, ai không cầu nguyện, thì dễ mất linh hồn.” Vậy, ta muốn cứu linh hồn mình thì phải noi gương Đức Mẹ mà cầu nguyện. Cầu nguyện liên, cầu nguyện sốt sắng và theo ý ngay lành.
Buổi sáng ta hãy cầu nguyện, vì lời nguyện lúc này như là của nuôi linh hồn mạnh sức chiến đấu cùng ma quỉ và lập công. Buổi tối, trước khi ngủ ta hãy ép mình đọc kinh để cảm tạ Chúa đã ban ơn giúp sức ta làm việc cả ngày và cũng để xin Người gìn giữ hồn xác ta ban đêm nữa.
Lại mỗi khi gặp khốn khó như: Lúc đau yếu, khi bị ma quỉ cám dỗ khuấy khất, ta hãy đem lòng lên cùng Chúa và Đức Mẹ. Cầu xin Người thêm sức cho ta được dùng mọi dịp để lập công.
Than ôi! Biết bao người giáo hữu ngày đêm bê tha tội lỗi, mê tham của cải, công việc thế tục, lòng trí ra khô khan nguội lạnh không mấy khi nhớ đến Chúa. Ta hãy xét xem đã bao lần ta quên lãng việc đọc kinh nguyện ngắm. Ta hãy thực tình ăn năn và xin Chúa thứ tha.
Lạy Đức Mẹ, xin Đức Mẹ giúp chúng con noi gương bắt chước Mẹ mà siêng năng đọc kinh lần hạt, để đời chúng con được tươi đẹp hơn mà sau này những kinh ấy sẽ kết thành triều thiên cho chúng con trên thiên đàng.
Thánh Tích:
Truyện ngắn sau đây trích trong sách Sử Ký Giáo Hội. Đời Hoàng đế La-mã, Marcô Aurêlio,?dân chư hầu Đức nổi loạn, nên hoàng đế phải đi chinh phạt. Quân thành trốn chạy. Quân La-mã liền vào thành cướp bóc đốt phá. Thừa cơ quân phiến loạn hãm vây thành. Quân La-mã cố giải vây nhưng vô hiệu.
Quân La-mã bị bao vây đã ba ngày cơm không có nước cũng không. Trong lúc nguy cơ ấy, đại đội công giáo, một trong các đại đội quân La-mã, phàn nàn ăn năn tội lỗi mình cùng tội lỗi các anh em khác. Những lính Công giáo này cùng nhau quì xuống khẩn nài Chúa cứu chữa mình cùng tất cả quân lính chưa biết Chúa nữa
Cầu nguyện được một lát thì trời kéo mây đen nghịt rồi mưa trút nước xuống. Các lính khát từ ba ngày liền lấy mũ hứng nước mà uống. Sau trận mưa rào thì tiếp liền giờ mưa đá và sấm sét vang dội. Quân phiến loạn không chỗ ẩn nấp nên sợ hãi và chạy thoát thân. Thế là cuộc giải vây cho quân La-mã đã đến. Quân La-mã thấy sự lạ bởi đại đội Công giáo cầu xin đều cảm động, tạ ơn Chúa và nhiều người trở lại đạo.
Ta suy truyện này thì biết lời Chúa phán xưa: “Hãy xin thì sẽ được” là lời chân thật.
|
NGÀY 16
×
Đức Mẹ làm gương sự năng rước lễ
1. Sau khi Chúa về trời, Đức Mẹ còn sống ở thế gian 14 năm nữa. Bấy nhiêu năm, Người những ước mong về trời cùng Chúa Giêsu, giám mục Bossuê nói rằng: Bấy nhiêu năm xa cách Chúa Giêsu, Đức Mẹ sống được là nhờ ở phép lạ. Để khỏi cô đơn, Đức Mẹ nhớ đến nhiệm tích Thánh Thể: Người rước Chúa Giêsu vào lòng mỗi ngày, Người đã làm gương cho giáo dân thời bấy giờ năng rước lễ. Mỗi khi rước lễ, Đức Mẹ tưởng tượng như xưa mình đã cưu mang Chúa Giêsu trong lòng.
Các thánh dạy rằng: Mình thánh Chúa Giêsu ngự trong lòng Đức Mẹ không tiêu tan đi cho đến ngày mai khi rước lễ. Vì thế lòng Đức Mẹ như đền thánh cho Chúa ngự liên mãi.
Đức Mẹ dọn mình rước lễ sốt sắng như xưa Người dọn mình đón Ngôi Hai xuống trong lòng vậy.
Ta hãy tưởng tượng, trước bàn thờ thánh Gioan dâng lễ, Đức Mẹ quì gối, đôi tay chắp trước ngực, mắt đăm đăm nhìn ngắm Mình Thánh Chúa. Người như quên mọi sự, chỉ ước ao rước lấy Chúa Giêsu mà thôi. Sau khi rước lễ, Người cám ơn lâu giờ, hát ca vịnh ngợi khen Chúa với tâm hồn sốt sắng lạ thường.
2. Chính lúc rước lễ, ta được hợp nhất với Chúa Giêsu. Ôi phúc trọng dường nào loài người được hợp nhất cùng Thiên Chúa! Giáo hội quả quyết rằng: “Ôi thật là lạ lùng! Con người hèn hạ mà được chịu lấy mình Thánh Chúa làm lương thực nuôi linh hồn”. Chính Chúa Giêsu bắt buộc ta phải chịu lấy Người khi Người phán: “Nếu ai chẳng ăn thịt Ta, thì chẳng được sống đời đời”.
Xưa nay, Giáo hội khuyên ta năng rước lễ, rước lễ hằng ngày. Giáo dân thời trước dâng lễ ngày nào thì rước lễ ngày ấy. Ta phải năng rước lễ, vì mình Thánh Chúa là sức mạnh giúp ta giao chiến cùng tội ác, giúp ta giữ mình thanh sạch. Những ai muốn làm con Đức Mẹ, hãy bắt chước năng chịu Mình Thánh Chúa. Có hai điều kiện cho được rước lễ nên:
1. Phải sạch tội trọng. Tội trọng làm cho ta mất ơn nghĩa cùng Chúa đáng phạt đời đời. Người nào biết mình mắc tội trọng mà còn rước lễ thì cả lòng làm hư phép Mình Thánh như Giuđa xưa.
2. Phải có ý lành. Ta rước lễ để vâng lời Chúa truyền dạy, để được hợp nhất với Chúa, để thêm sức mạnh trong linh hồn, để thêm lòng mến Chúa. Sự năng rước lễ lại giúp ta chừa tội nhẹ và diệt trừ những thói hư nết xấu.
Tuy tội nhẹ không ngăn trở việc rước lễ, nhưng trước khi rước lễ, ta phải giục lòng ghét những tội ấy, và thêm lòng tin cậy kính mến Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể.
Lạy Mẹ Maria Mẹ đã làm gương sự năng rước lễ, rước lễ sốt sắng cho chúng con bắt chước. Xin Mẹ giúp chúng con biết dọn mình xứng đáng, giữ linh hồn chúng con trong sạch, để làm đền thờ cho Chúa ngự hằng ngày và liên mãi.
Thánh Tích:
Năm 867, vua Lôtariô mê một phụ nữ kia và lấy cô ta làm vợ lẽ. Đức Giáo Hoàng Nicolaô can gián, nhưng vua chẳng nghe, nên vua bị phạt vạ mất phép thông công. Vua Lotariô quá mê say, không sao bỏ được. Năm sau Đức Giáo Hoàng Adrianô lên thế vị. Vua Lotariô liền sang Ý mừng vị tân Giáo Hoàng, nói dối mình đã từ vợ lẽ và xin người giải vạ. Các quan triều đồng tình làm chứng gian. Đức Giáo Hoàng tin và giải vạ cho vua. Sáng hôm sau Người dâng lễ cầu nguyện cho vua.
Trước khi cho chịu lễ, vị Giáo Hoàng cầm Mình Thánh bảo vua trước mặt các Hồng Y và các quan rằng: “Nếu vua đã thực lòng bỏ vợ lẽ, đã thực lòng hối cải, thì vua hãy lên chịu Mình Thánh Chúa. Nếu vua không thực lòng thì đừng chịu Mình Thánh kẻo bị phạt”. Đức Giáo Hoàng lại bảo các quan rằng: “Nếu các quan chẳng có đồng tình giấu lỗi cho vua, thì Mình Thánh các quan chịu sẽ ban cho các quan sự sống đời đời”. Nghe lời ấy vua quan khiếp sợ. Nhưng vua và ít nhiều quan cứ lên rước lễ. Đoạn Đức Giáo Hoàng mời vua và các quan ở lại dự yến. Hôm sau mới trở về. Về đến thành Lucia, vua và nhiều quan mắc bệnh lạ lùng, chẳng ai luận được bệnh gì: ruột gan thì nóng như lửa, da thì tróc lột cả, tóc thì rụng hết. Nhiều quan chết trước mặt vua. Vua cố gắng về đến thành Plaxenxia thì bất tỉnh và qua đời ở đó.
Mọi người đều tin đó là phép lạ Chúa phạt những người cả lòng làm hư phép Mình Thánh. Vậy ta hãy xin Đức Mẹ hộ giúp đừng bao giờ ta phạm tội trọng ấy.
|
NGÀY 17
×
Đức Mẹ năng suy ngắm những sự thương khó Chúa Giêsu
1. Các thánh năng suy ngắm những sự thương khó Chúa Giêsu, đã in sâu vào lòng những kỷ niệm ấy không bao giờ phai mờ. Đức Mẹ hơn ai hết, đã ghi sâu vào lòng hình dáng tiều tụy khổ nhục của Con mình chịu chết trên Thánh giá.
Từ ngày Chúa về trời, Đức Mẹ vẫn tưởng niệm cái chết khổ cực của Con để thêm lòng ghét tội và thương yêu những tội nhân.
Xưa Đức Mẹ bảo bà Tháng Brigitta rằng: trong những năm Mẹ còn ở thế-gian, không bao giờ Mẹ quên được những khổ cực của Con Mẹ đã chịu, không bao giờ Mẹ quên được những khổ nhục của Con Mẹ trên núi Calvê.
Người ta thuật lại chẳng những Đức Mẹ suy ngắm những sự thương khó Chúa Giêsu trong lòng mà thôi, người lại năng viếng những nơi Chúa Giêsu đã chịu cực và chịu chết.
Đức Mẹ vào vườn Giệtsimani, nơi Chúa đã đổ mồ hôi máu vì lo buồn, Người vào tiền đường Philatô, nơi Chúa bị những trận đòn nát thịt, nơi quan dữ quấn cho Người một vòng gai.
Đức Mẹ bước theo con đường Chúa đã đi vai vác thánh giá cho đến đỉnh núi Calvê. Sau cùng Người vào viếng hang đá, nơi Chúa đã được an táng.
Đức Mẹ thăm viếng nơi nào thì đôi mắt đẫm lệ, Người quì xuống hôn kính nơi ấy. Về sau, nhiều giáo dân theo gương Đức-Mẹ cũng đến Giêrusalem viếng những nơi thương khó Chúa Giêsu. Mỗi khi thăm viếng những nơi thánh ấy, họ thêm lòng mến Chúa và gớm ghét sự tội.
2. Chẳng có sự gì giúp người ta dứt bỏ đường tội, thêm lòng mến Chúa và tiến tới trên đường nhân đức cho bằng suy ngắm những sự thương khó Chúa Giêsu. Một giọt lệ chảy ra vì thương hại Chúa đã chịu chết tủi cực thì có công phúc hơn làm nhiều việc lành khác.
Nhìn ngắm ảnh Chúa trên thánh giá, các thánh đã thêm lòng mến Chúa, quyết xa lánh những vui sướng thế gian, quyết bỏ những vinh hoa thế tục. Thánh Phaolô xưng mình chỉ học biết có Chúa chịu khổ hình thập tự mà thôi.
Ta nên bắt chước Đức Mẹ và các thánh năng suy ngắm những sự thương khó Chúa Giêsu, để thêm lòng mến Chúa và ghét tội. Nhất là ta năng ngắm đường Thánh giá là một phương pháp hiệu lực giúp ta tiến tới trong đường tu đức. Đường Thánh giá là chính đường Chúa đã đi, là đường ngay nẻo chính đưa ta lên thiên đàng.
Lạy Mẹ Maria, xưa Mẹ năng suy ngắm những sự thương khó Chúa, năng viếng đường Chúa đã đi, xin Mẹ giúp chúng con biết tưởng niệm cái chết đau khổ của Chúa, cho chúng con ghi sâu vào lòng những thương tích Chúa, để bởi đó chúng con lĩnh được nhiều ơn ích trong linh hồn.
Thánh Tích:
Nguyên một sự nhìn ngắm ảnh tượng Chúa Giêsu khổ hình thập giá có sức làm cho tội nhân động lòng sám hối.
Ở một họ đạo kia, trong tuần đại phúc giáo dân sốt sắng, đua nhau đến nhà thờ đọc kinh dâng lễ, nghe sách nghe giảng. Chỉ có một bác phó rèn chẳng đến nhà thờ bao giờ. Nhà bác ta ở gần nhà thờ đang khi giáo dân đọc kinh dâng lễ, tiếng đe búa vang dội liên mãi.
Người ta khuyên bảo, nhưng bác coi thường. Tuần đại phúc gần xong, Cha xứ mượn bác ta chữa một ảnh Thánh giá. Hai ngày sau, bác ta mang trả lại. Bác tỏ vẻ buồn phiền hầu như phát khóc. Cha xứ hỏi tại sao thì bác ta thưa: “Thưa cha, nhìn ngắm Chúa Giêsu tử hình trên thập giá, con cảm động không sao cầm được nước mắt, vì tội con phạm quá nhiều. Đã hai đêm nay con không ngủ được những hồi tưởng đến cuộc đời bội bạc của con. Từ nay con quyết chí sửa mình lại”.
Ngày cuối đại phúc, người ta đã thấy bác phó rèn cùng với giáo dân đến nhà thờ đọc kinh dâng lễ và xưng tội rước lễ sốt sắng.
|
NGÀY 18
×
Đức Mẹ làm gương sự nhẫn nhục chịu đau khổ
Trên đời Đức Mẹ khổ cực hơn ai hết. Giáo hội nhận Đức Mẹ là Nữ-vương các thánh Tử đạo, vì Người đã chịu nhiều khổ cực hơn mọi thánh Tử đạo. Các thánh Tử đạo chịu đau khổ với một thời gian vắn vỏi, năm ba ngày, đôi ba tháng, một hai năm là cùng, còn Đức Mẹ chịu đau khổ suốt đời.
Từ khi nghe lời tiên tri Simêong, Đức Mẹ những ngậm ngùi đau đớn liên lỉ. Lúc nào hình ảnh tiều tụy của Con, với những bộ mặt độc ác, dữ tợn của quân lính cũng hiện diện trong óc Đức Mẹ. Bóng cây Thánh giá trên đồi Calvê vẫn thấp thoáng trước mặt Đức Mẹ. Cả đời Đức Mẹ là một giọt lệ không ngừng.
Đau khổ của Đức Mẹ lại nhiều và sâu cay hơn đau khổ của các thánh Tử đạo đau khổ ngoài xác, nhưng Đức Mẹ đau khổ trong lòng. Vết thương trong lòng bao giờ cũng nặng hơn ngoài xác, Đức Mẹ không bị người ta hành hạ đánh đập, nhưng suy đến những hình khổ của Chúa Giêsu, Con Người, phải chịu thì lòng Đức Mẹ như bị một mũi gươm vô hình thâu qua.
Đức Mẹ càng yêu Con mình thì lòng Người càng đau đớn. Thánh Ansêlimô dạy: “ Nếu không có ơn Trên nâng đỡ, Đức Mẹ sẽ chết vì đau khổ”. Đời của Đức Mẹ tuy tràn đầy đau khổ, nhưng Người vẫn sống vững vàng, sống kiên nhẫn điềm tĩnh khi nghe Sứ thần truyền đem Con trốn sang Ai-cập, hay khi lạc mất Con ba ngày. Người vẫn nhẫn nhục đứng dưới Thánh giá trên núi thánh, mặc cho đôi hàng lệ tuôn rơi.
Đối với Đức Mẹ, không có gì là tình cờ. Mọi sự do Chúa định-đoạt, Người chỉ biết cúi đầu tuân theo, tự hiến thân cùng với Con làm của lễ hy sinh đền tội thiên hạ.
Thánh Gióp dạy: Đời người thật vắn vỏi và là một cuộc vật lộn không ngừng với mọi khổ cực. Ở đời này, ai thoát được gian nan khốn khó. Chúa muốn làm vậy, để ta biết thế gian chẳng phải là quê thật, chỉ là nơi đầy ải, nơi tạm trú mong về quê thật đời sau. Chúa cho ta chịu sự khó, để người lành thêm công phúc, người có tội được dịp lập công.
Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa còn phải đau khổ, lẽ nào ta thoát khỏi. vậy khi gặp sự đau khổ như chết cha, mất mẹ, khi ốm đau bệnh tật, khi bị người đời hà hiếp khinh chê. . . ta chớ buông lời kêu trách. Hãy bắt chước Đức Mẹ cam lòng chịu đựng. Bao lâu đau khổ còn đè nặng trên vai, hãy noi gương Đức Mẹ đứng dưới Thánh giá lẳng lặng nhìn Con chết nhục cho đến giây phút cuối cùng.
Lạy Mẹ rất thánh, Mẹ đã làm gương sự nhẫn nhục chịu khó. Xin Mẹ thêm sức cho chúng con bao lâu còn ở dưới thế, bắt chước Mẹ vui lòng chịu mọi đau khổ để thêm công đáng Chúa thưởng trên thiên đàng.
Thánh Tích:
Năm 1842, bên Pháp có một bà góa sang trọng chỉ có một con trai. Chẳng may cậu ta bị thương hàn, được ít lâu thì chết. Bà mẹ thương tiếc lăn khóc đêm ngày, quên ăn mất ngủ.
Ngày lễ kính Đức Mẹ sầu bi, bà đi dự lễ, nghe giảng về những đau khổ của Đức Mẹ. Nhắc đến cảnh tượng Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh giá, thì thầy cả hỏi giáo hữu: “Nào ai trong anh em đau khổ bằng Đức Mẹ? Dầu vậy Đức Mẹ vẫn một lòng chịu đau khổ không một lời than trách. Anh em hãy noi gương Đức Mẹ, hoặc Chúa để anh em phải đau khổ hãy cùng Đức Mẹ đứng dưới thánh giá lẳng lặng nhìn Con, không một lời ca thán”. Nghe đến đấy, bà cảm động. Quì trước tượng Đức Mẹ suy ngắm những đau khổ của Đức Mẹ. Bà thấy trong lòng đầy an ủi, từ đấy bà bắt chước Đức Mẹ vui lòng chịu khổ đau không còn kêu khóc như trước nữa.
|
NGÀY 19
×
Đức Mẹ cứu giúp bệnh nhân
1. Sau khi tổ tông phạm tội, con người trở nên yếu đuối, mắc đủ các giống bệnh tật.
Thật vậy, nào ai ở thế gian có thể tự phụ mình vô bệnh tật. Từ lúc lọt lòng đến tuổi già, người giầu sang, kẻ nghèo hèn không ai thoát khỏi tai ác của bệnh tật. Vì tội, bệnh tật đã gieo mầm vào cơ thể con người từ lúc dựng thai, ta sinh trong tội lỗi thì cũng sinh trong bệnh tật.
Chúa Giêsu xuống thế gian, đã động lòng trước muôn vàn bệnh tật của loài người, Người đã thương giơ tay chữa người mù được sáng, người câm nói được, người điếc nghe thấy, kẻ què đi được. . . và còn bao giống bệnh khác Người đã chữa xưa trên đất Palestina.
Đức Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu cũng thương loài người và nhờ quyền thế Chúa ban cũng đã cứu chữa biết bao bệnh nhân. Giáo Hội đã xưng Người là “Đấng cứu kẻ liệt kẻ khốn”.Lịch sử đã cho ta biết rất nhiều bệnh nhân, bất cứ tôn giáo nào, đều được Mẹ chữa một cách mầu nhiệm. Trong các nhà thờ Đức Mẹ ở thành Lau-rêto, thành Ly-ông, thành Ba-lê, và nhiều nhà thờ khác bên Pháp, bên Ý và Đức, người ta thấy rất nhiều bảng vàng treo trên tường, kể công ơn Đức Mẹ đã chữa khỏi các bệnh nhân.
Biết bao bệnh nhân được Đức Mẹ chữa khỏi, đã chép sách ca tụng muôn đời lòng thương yêu Đức Mẹ. Ngày nay ở Lộ-Đức số bệnh nhân được Đức Mẹ chữa đã kể rất nhiều hằng năm có đến hàng vạn người. Cũng có nhiều bệnh nhân không được Đức Mẹ chữa đã, nhưng Người ban ơn yên ủi để họ vui lòng chịu đựng hầu thêm công phúc.
2. Khi ta mắc bệnh, ta hãy vững lòng cầu xin Đức Mẹ cứu chữa. Ta phải kiên tâm cầu xin cho đến khi người cứu chữa. Nhiều người đã cầu xin mà chưa được đã vội ngã lòng.
Phải cầu xin rằng: Lạy Mẹ, nếu sức khỏe phần xác sinh ích cho con phần hồn thì xin Mẹ chữa con cho. Nếu Đức Mẹ biết sức khỏe ấy sẽ tác hại cho linh hồn con thì xin Mẹ giúp con chịu bệnh này cho vui lòng.
Nếu lâu ngày mà bệnh chẳng bớt, ta đừng buông lời kêu trách kẻo mất công phúc; vì mọi bệnh tật là hình phạt của tội ác, nếu ta vui lòng sẽ sinh ích rất nhiều cho ta.
Lạy Mẹ Maria rất thánh là Đấng chữa được mọi bệnh nhân, khi Chúa cho chúng con phải ốm đau, xin Mẹ chữa chúng con. Nếu Chúa muốn chúng con phải chịu bệnh lâu năm, xin Mẹ giúp chúng con chịu cho nên, để những bệnh tật ở đời này nên như bậc thang đưa chúng con về thiên đàng.
Thánh Tích:
Ở làng kia, xa Lộ-Đức năm ngày đường, có một bà tên là Ca mắc bệnh đã chín năm tròn. Bà ta không ăn, không ngủ được, đau xương, đau ruột đau khắp cả mình, lại sốt rét mê man. Bà cố sống, cũng chỉ sống ẻo lả, vì sinh khí đã suy nhược.
Bà ta bàng hoàng sống giở, chết giở, lú lẫn đến nỗi quên kinh đọc hằng ngày. Bà Ca dù kiệt sức nhưng cũng đến viếng hang đá Lộ-Đức. Bà thuê một chiếc xe độc mã. Dọc đường bà kiệt sức, đã mấy lần ngất đi. Người ta tưởng khó lòng đưa bà tới Lộ-Đức. Đến nơi, người ta lay bà, khiêng tới một cửa hang, trong khi đó bà vẫn bất tỉnh.
Được một lúc bà hồi lại. Người ta đưa cho bà một bát nước suối Đức Mẹ. Bà uống vài hớp không thấy chuyển bệnh; bà uống ngay hớp nữa, bà thấy trong mình đau đớn như đứt ruột nát gan, các khớp xương như tan rã.
Bà Ca nhìn ngắm tượng Đức Mẹ trên cửa hang đá, bỗng bà thấy trong mình dễ chịu. Các bệnh tật dần dần biến hết. Bà vui mừng kêu lên: “Ô! Tôi khỏi rồi! Lạy Mẹ Maria! Con cảm tạ Mẹ đời đời! Con hết lòng cảm tạ Mẹ, vì Mẹ đã chữa con”.
Bà ấy ở lại tạ ơn trước tượng Đức Mẹ ít lâu. Người ta thấy phép lạ cả thể ấy thì hết lòng tin cậy Đức Mẹ. Bà Ca ăn uống khỏe mạnh như người không bệnh tật, bà ra về lòng hớn hở ca ngợi Đức Mẹ. Để tỏ lòng biết ơn Đức Mẹ, năm nào bà cũng đến viếng Đức Mẹ ở Lộ-Đức.
|
NGÀY 20
×
Đức Mẹ cứu giúp bệnh nhân
1. Sau khi tổ tông phạm tội, con người trở nên yếu đuối, mắc đủ các giống bệnh tật.
Thật vậy, nào ai ở thế gian có thể tự phụ mình vô bệnh tật. Từ lúc lọt lòng đến tuổi già, người giầu sang, kẻ nghèo hèn không ai thoát khỏi tai ác của bệnh tật. Vì tội, bệnh tật đã gieo mầm vào cơ thể con người từ lúc dựng thai, ta sinh trong tội lỗi thì cũng sinh trong bệnh tật.
Chúa Giêsu xuống thế gian, đã động lòng trước muôn vàn bệnh tật của loài người, Người đã thương giơ tay chữa người mù được sáng, người câm nói được, người điếc nghe thấy, kẻ què đi được. . . và còn bao giống bệnh khác Người đã chữa xưa trên đất Palestina.
Đức Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu cũng thương loài người và nhờ quyền thế Chúa ban cũng đã cứu chữa biết bao bệnh nhân. Giáo Hội đã xưng Người là “Đấng cứu kẻ liệt kẻ khốn”.Lịch sử đã cho ta biết rất nhiều bệnh nhân, bất cứ tôn giáo nào, đều được Mẹ chữa một cách mầu nhiệm. Trong các nhà thờ Đức Mẹ ở thành Lau-rêto, thành Ly-ông, thành Ba-lê, và nhiều nhà thờ khác bên Pháp, bên Ý và Đức, người ta thấy rất nhiều bảng vàng treo trên tường, kể công ơn Đức Mẹ đã chữa khỏi các bệnh nhân.
Biết bao bệnh nhân được Đức Mẹ chữa khỏi, đã chép sách ca tụng muôn đời lòng thương yêu Đức Mẹ. Ngày nay ở Lộ-Đức số bệnh nhân được Đức Mẹ chữa đã kể rất nhiều hằng năm có đến hàng vạn người. Cũng có nhiều bệnh nhân không được Đức Mẹ chữa đã, nhưng Người ban ơn yên ủi để họ vui lòng chịu đựng hầu thêm công phúc.
2. Khi ta mắc bệnh, ta hãy vững lòng cầu xin Đức Mẹ cứu chữa. Ta phải kiên tâm cầu xin cho đến khi người cứu chữa. Nhiều người đã cầu xin mà chưa được đã vội ngã lòng.
Phải cầu xin rằng: Lạy Mẹ, nếu sức khỏe phần xác sinh ích cho con phần hồn thì xin Mẹ chữa con cho. Nếu Đức Mẹ biết sức khỏe ấy sẽ tác hại cho linh hồn con thì xin Mẹ giúp con chịu bệnh này cho vui lòng.
Nếu lâu ngày mà bệnh chẳng bớt, ta đừng buông lời kêu trách kẻo mất công phúc; vì mọi bệnh tật là hình phạt của tội ác, nếu ta vui lòng sẽ sinh ích rất nhiều cho ta.
Lạy Mẹ Maria rất thánh là Đấng chữa được mọi bệnh nhân, khi Chúa cho chúng con phải ốm đau, xin Mẹ chữa chúng con. Nếu Chúa muốn chúng con phải chịu bệnh lâu năm, xin Mẹ giúp chúng con chịu cho nên, để những bệnh tật ở đời này nên như bậc thang đưa chúng con về thiên đàng.
Thánh Tích:
Ở làng kia, xa Lộ-Đức năm ngày đường, có một bà tên là Ca mắc bệnh đã chín năm tròn. Bà ta không ăn, không ngủ được, đau xương, đau ruột đau khắp cả mình, lại sốt rét mê man. Bà cố sống, cũng chỉ sống ẻo lả, vì sinh khí đã suy nhược.
Bà ta bàng hoàng sống giở, chết giở, lú lẫn đến nỗi quên kinh đọc hằng ngày. Bà Ca dù kiệt sức nhưng cũng đến viếng hang đá Lộ-Đức. Bà thuê một chiếc xe độc mã. Dọc đường bà kiệt sức, đã mấy lần ngất đi. Người ta tưởng khó lòng đưa bà tới Lộ-Đức. Đến nơi, người ta lay bà, khiêng tới một cửa hang, trong khi đó bà vẫn bất tỉnh.
Được một lúc bà hồi lại. Người ta đưa cho bà một bát nước suối Đức Mẹ. Bà uống vài hớp không thấy chuyển bệnh; bà uống ngay hớp nữa, bà thấy trong mình đau đớn như đứt ruột nát gan, các khớp xương như tan rã.
Bà Ca nhìn ngắm tượng Đức Mẹ trên cửa hang đá, bỗng bà thấy trong mình dễ chịu. Các bệnh tật dần dần biến hết. Bà vui mừng kêu lên: “Ô! Tôi khỏi rồi! Lạy Mẹ Maria! Con cảm tạ Mẹ đời đời! Con hết lòng cảm tạ Mẹ, vì Mẹ đã chữa con”.
Bà ấy ở lại tạ ơn trước tượng Đức Mẹ ít lâu. Người ta thấy phép lạ cả thể ấy thì hết lòng tin cậy Đức Mẹ. Bà Ca ăn uống khỏe mạnh như người không bệnh tật, bà ra về lòng hớn hở ca ngợi Đức Mẹ. Để tỏ lòng biết ơn Đức Mẹ, năm nào bà cũng đến viếng Đức Mẹ ở Lộ-Đức.
|
NGÀY 21
×
Đức Mẹ hằng hộ giúp ta được chết lành
1. Trong đời, không có lúc nào khổ cực và nguy hiểm cho bằng lúc hấp hối trên giường bệnh, quỉ dữ lợi dụng lúc ấy, tìm trăm nghìn cách để khuấy khuất bệnh nhân. Khi thì nó bầy các tội ra trước mắt, để bệnh nhân bối rỗi rồi sinh nản lòng. Lúc thì nó cám dỗ bệnh nhân luyến tiếc của cải, chức quyền đời này, để bệnh nhân lấy sự chết làm cay đắng.
Giờ ấy, bệnh nhân phải đau đớn trong lòng ngoài xác, khó dọn mình để về đời sau, nhưng những ai là đầy tớ trung thành của Đức Mẹ, hãy vững lòng tin tưởng: không bao giờ Đức Mẹ từ bỏ con cái Người trong giờ sau hết, Người đã lĩnh quyền che chở ta trong giờ chết, khi Người đứng gần thánh giá lúc Chúa trút hơi thở cuối cùng.
Trong kinh Kính-Mừng, ta thường cầu xin: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng tôi là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. Đức Mẹ hằng săn sóc nâng đỡ ta trong giờ chết. Người giúp bệnh nhân lướt thắng những chước cám dỗ nặng nề. Người vỗ về giờ chết. Người an ủi để bệnh nhân lấy cái chết làm nhẹ nhàng và để dọn mình về đời sau.
Cũng có lần Đức Mẹ để bệnh nhân phải những cơn cám dỗ mãnh liệt. Người đứng bên nhìn con mình giao chiến với quỉ dữ, nhưng không bao giờ để con mình thất bại. Như xưa Đức Mẹ để cho thánh Anrê Avêlinô lúc hấp hối phải quỉ dữ khuấy khuất nặng nề. Ông thánh không ngừng kêu tên cực trọng Đức Mẹ liên mãi, cho đến khi được yên giấc trong tay Đức Mẹ.
Thánh Gioan lúc hấp hối cũng mắc phải những cơn cám dỗ mãnh liệt. Người hằng kêu xin Đức Mẹ đến cứu chữa, nhưng chẳng thấy giảm bớt, thì lo buồn quá. Bỗng chốc Đức Mẹ hiện ra, dùng lời dịu dàng mà quở-trách ông thánh: “Ớ con, sao con lo buồn? Con hãy vững vàng trông cậy, không bao giờ Mẹ bỏ con cái trong giờ chết”.
Chẳng những Đức Mẹ giúp đỡ bệnh nhân lướt thắng những cơn cám dỗ, Người lại giảm bớt những đau đớn và giúp bệnh nhân được chết lành. Người đã tỏ điều ấy cho bà thánh Birgitta rằng: “Chính Mẹ yên ủi con cái cho chúng bớt đau đớn và đỡ khiếp sợ thần chết”.
2. Ta muốn Đức Mẹ thương giúp ta trong giờ sau hết, thì khi còn khỏe ta phải hết lòng sùng kính Mẹ. Ta hãy siêng năng lần hạt, mang ảnh Đức Mẹ trong mình. Ta hãy noi gương Đức Mẹ ăn ở thánh thiện, giữ lòng thanh tịnh và hết lòng mến Chúa yêu người. Vì sống thế nào thì chết thể ấy: sống lành thì chết lành, sống dữ thì chết dữ. Hằng ngày ta cũng nên cầu nguyện cho bao nhiêu người đang hấp hối được vững lòng dọn mình về đời sau, để ngày sau, họ cũng cầu nguyện cho ta được chết lành bằng yên.
Lạy Mẹ Maria rất thánh là quan thầy những ai ước ao chết lành. Chúng con dù chẳng đáng làm con Mẹ, nhưng xin Mẹ cũng che chở chúng con trong giờ sau hết. Khi chúng con hấp hối trên giường bệnh, xin Mẹ an ủi nâng đỡ chúng con và giúp chúng con được chết lành trong tay Mẹ.
Thánh Tích:
Trước đây hơn một trăm năm, bên Tân thế giới có nổi loạn. Dân sự tàn sát lẫn nhau giết hại rất nhiều. Trận Carôlina chết nhiều người hơn cả. Trong số đó, có một vệ binh tên là Patrixiô, còn trẻ tuổi bị thương nặng ở đầu. Ban cứu thương thấy Patrixiô phải dấu nặng gần chết, thì để lại không đưa về bệnh viện.
Patrixiô kiệt sức, không nói được, nhưng trong lòng còn tỉnh. Anh ta thầm thĩ kêu xin Đức Mẹ: “Lạy Đức Mẹ, Đức Mẹ biết con đang mắc tội trọng, xin Đức Mẹ liệu cho con được gặp thày cả trước khi chết”.
Đức Mẹ thương nghe lời Patrixiô cầu xin. Ban cứu thương trước định bỏ, sau lại đưa anh về bệnh viện. Thấy đến nơi, các bà phước coi bệnh nhân thấy anh sắp chết liền liệu cho anh được xưng tội, chịu lễ và ăn mày các phép. Anh ta vui mừng và tạ ơn Đức Mẹ, và đêm hôm ấy anh được chết lành bằng yên trong tay Đức Mẹ.
|
NGÀY 22
×
Đức Mẹ hay cứu giúp các linh hồn ở luyện ngục
Xưa Đức Mẹ bảo bà thánh Birgitta rằng: “Mẹ là Mẹ các linh hồn ở luyện ngục, Mẹ hằng giúp đỡ, giảm bớt những hình khổ cho chúng”.
Mẹ thế gian thấy con mình sa lửa thì tìm cách cứu nó ngay. Đức Mẹ là Mẹ nhân từ, thấy con cái mình bị sa lửa luyện ngục lẽ nào không thương xót cứu giúp.
Người soi lòng những kẻ còn sống dâng lời cầu nguyện, dâng việc lành phúc đức cho các linh hồn ấy, hoặc Người xin Chúa cho các linh hồn ấy được về thế gian xin người còn sống cứu giúp mình như xưa Người đã xin cho Đức Giáo Hoàng Inôxentê hiện về xin bà thánh Lutharde cầu nguyện cho mình.
Có khi Đức Mẹ xuống nơi những linh hồn ấy để giảm bớt hình khổ cho họ. Đức Mẹ hằng làm việc lành chỉ cho các linh hồn ấy. Những lời Người cầu nguyện, những việc lành Người làm như sương sa, như nước lạnh dập tắt những ngọn lửa nóng rát thiêu đốt các linh hồn.
Đức Mẹ giảm bớt những đau khổ cho các linh hồn, lại được quyền rút vắn thời hạn giam phạt các linh hồn ấy. Cũng như Hoàng hậu xin vua ân xá phóng thích cho tù nhân, Đức Mẹ xin Chúa cũng giảm bớt thời hạn giam phạt hay phóng thích ngay cho các linh hồn. Nhất là những linh hồn mồ côi, được Đức Mẹ thương giúp cách riêng.
Các thánh dạy: Đức Mẹ về trời mang theo các linh hồn ở luyện ngục. Ông Gerson nói rằng: Ngày hôm ấy, ngục tối đã ra vắng vẻ, vì mọi linh hồn đã được theo chân Mẹ về trời.
Nhiều đấng thánh nói: những ngày lễ kính Đức Mẹ, Đức Mẹ xuống luyện ngục an ủi các linh hồn, có linh hồn được Đức Mẹ giảm bớt hình khổ, có linh hồn được Đức Mẹ đưa về trời ngay.
Xưa Đức Mẹ hiện ra phán cùng Đức Giáo Hoàng Gioan rằng: “Những ai mặc áo ?Đức Bà và tôn sùng Mẹ khi còn sống, thì lúc chết mà còn bị giam trong luyện ngục, Mẹ sẽ xuống cứu và đưa kẻ ấy về thiên đàng ngày thứ bảy sau khi kẻ ấy qua đời”.
Ta hãy bắt chước Đức Mẹ thương giúp các linh hồn ở luyện ngục, nhất là những linh hồn mồ côi, linh hồn cha mẹ, họ hàng thân thích những kẻ làm ơn cho ta. Ta hãy đọc kinh lần hạt, làm phúc bố thí, xưng tội chịu lễ, dâng cho các linh hồn ấy chóng được về nơi mát mẻ.
Một lần kia, thánh Gioan Kim Ngôn, thấy một thiên thần cầm chén nước đựng Máu Thánh Chúa Giêsu đổ xuống lửa luyện ngục. Nhờ đó nhiều linh hồn trở nên sáng láng ra khỏi luyện ngục mà lên thiên đàng.
Lạy đức Mẹ Maria, xin Mẹ ban cho chúng con được ơn bắt chước Mẹ, thương giúp các linh hồn ở luyện ngục, dâng việc lành cầu cho các linh hồn ấy.
Thánh Tích:
Giáo dân La-mã xưa có thói quen, trước ngày lễ Đức Mẹ lên trời, cầm nến đi viếng các nhà thờ. Có một lần, bà sang trọng kia cùng với mọi người vào nhà thờ cầu nguyện, bà trông thấy một bà đã quen trước, chết được sáu tháng, cũng quì đọc kinh bên cạnh bà.
Bà ta bỡ ngỡ, ra đứng ngoài cửa đợi khi bà ấy ra thì hỏi: “Bà có phải là Morozia không?” người ấy thưa: “Phải, tôi phải giam phạt ở luyện ngục từ ngày tôi bỏ thế gian cho đến bây giờ. Nhưng ngày mai là ngày lễ Đức Mẹ lện trời, tôi và nhiều người khác mà bà không trông thấy. Hôm nay chúng tôi đến đây lần cuối cùng để tạ ơn Đức Mẹ”.
Bà này còn đang nghi ngờ, thì bà ta lại tiếp: “Để bà tin lời tôi nói, thì ngày rầy sang năm, chính ngày lễ Đức Mẹ lên trời, bà sẽ bỏ thế gian”.
Thánh Phêrô Đamiêng làm chứng điều ấy rằng: “Bà kia tin lời đó, và từ đấy, bà làm nhiều việc lành đợi ngày về đời sau. Quả thật, ngày hôm trước lễ Đức Mẹ lên trời, bà ngã bệnh nặng và chính ngày lễ thì qua đời”.
|
NGÀY 23
×
Việc thứ nhất người ta quen làm để tôn sùng Đức Mẹ là lần hạt Mân Côi
1. Chính Đức Mẹ đã truyền phép lần hạt Mân côi cho ông thánh Đôminicô được hơn 700 năm nay. Thời ấy ở bên pháp, bè rối nổi lên rất mạnh giáo dân và tu sĩ bị tàn sát, nhà thờ nhà dòng bị đốt phá. Thánh Đôminicô hết sức khuyên dụ bè rối ấy trở lại trong hai năm mà không kết quả gì. Thánh Đôminicô vào một nhà thờ gần thành Tôlôsa, xin Đức Mẹ tỏ cho biết phải làm thế nào mà chinh phục được bè rối ấy. Sau ba ngày ăn chay cầu nguyện, Đức Mẹ hiện đến phán bảo Đôminicô rằng: “Hỡi Đôminicô, muốn chinh phục được dân cứng lòng ấy, thì hãy khuyên người ta lần hạt Mân côi”. Đức Mẹ lại dạy ông thánh cách thức lần hạt. Thánh Đôminicô vâng lời Đức Mẹ, khuyên bảo người ta lần hạt Mân côi. Trong vòng hai năm, những người theo bè rối trở lại hầu hết. Phép lần hạt là một cách cầu nguyện ở tại đọc 15 kinh Lạy Cha và 150 kinh Kính mừng. Phải đọc ra ngoài miệng và suy ngắm trong lòng 15 sự mầu nhiệm Chúa Giêsu cùng Đức Mẹ. Hai sự ấy cùng đi đôi với nhau, vì cả hai thuộc về bản tính phép lần hạt.
2. Phép lần hạt Mân côi rất trọng và sinh nhiều ơn ích, vì chính Đức Mẹ đã truyền cho thánh Đôminicô và vì kinh Lạy Cha và kinh Kính mừng là những kinh trọng nhất trong đạo. Lại vì 15 sự mầu nhiệm Chúa Giêsu cùng Đức Mẹ là nguồn gốc đạo Thiên Chúa.
Phép lần hạt dạy ta những điều căn bản trong đạo, giúp ta dễ thêm lòng mến yêu Chúa. Phép lần hạt lại giúp ta giữ vững đức tin, thêm nhân đức cho người sốt sắng và lòng sám hối cho kẻ có tội.
Phép lần hạt Mân côi là khí giới hiệu lực, phá tan sức mạnh của thù địch Công giáo, lại là thuốc thần hiệu chữa khỏi ôn dịch và những tai họa khác.
Xưa nay, các Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục đều khuyến khích cổ động cho phép lần hạt. Giáo hữu mọi nơi, mọi thời đại đều kính trọng, cậy trông và siêng năng lần hạt.
Vậy từ trước tới nay ta chưa quí trọng phép lần hạt, thì từ này ta hãy siêng năng lần hạt, lần hạt mọi ngày. Ai siêng năng lần hạt là dấu chắc được cứu thoát khỏi hỏa ngục, vì người đó hằng tâm niệm những sự mầu nhiệm căn bản trong đạo, để sống thánh thiện và tiến tới trong đường nhân đức.
Lạy Mẹ, là Nữ vương truyền phép Mân côi rất thánh, chúng con ca ngợi cảm tạ Mẹ, vì Mẹ đã dạy chúng con một cách cầu nguyện quí trọng và sinh nhiều ơn ích, chớ gì con biết quí trọng và siêng năng lần hạt mọi ngày.
Thánh Tích:
Bà thánh Phanasia quê tại nước Ý. Bà mẹ là người hiền lành thánh thiện dạy con sùng kính Đức Mẹ và chăm lần hạt Mân côi từ bé. Phanasia noi gương mẹ quí trọng sự lần hạt chẳng may mẹ mất sớm cha tái hôn với một bà tên là Margarita. Bà này khô khan lại xấu nết, lạ gì tình dì ghẻ con chồng. Phanasia bị hành hạ đủ điều; mặc dầu cô bé vẫn ngoan ngoãn kính yêu dì như mẹ.
Bà cấm Phanasia không được lần hạt, Phanasia phải lần hạt trộm vụng. Có lần bị dì bắt được, bà ta giật lấy tràng hạt quăng đi và đánh cho Phanasia một trận đau điếng. Phanasia đau lắm nhưng không dám mở miệng chỉ tiếc mất một cỗ tràng hạt. Cô bé không còn tràng hạt, thì lấy giây thắt nút lại thay tràng hạt. Chẳng may dì lại bắt được, và Phanasia lại bị một trận đòn nữa.
Nhưng ngày kia, Phanasia đi chăn chiên trên đồi. Cô thả đàn chiên ăn rong, và quì một chỗ lần hạt. Bất ưng, dì Margarita đến, thấy cô đang quì lần hạt. Bà nổi giận cầm gậy đánh vỡ đầu cô bé. Bị thương nặng, cô bé qua đời ngày hôm sau. Đức Giáo Hoàng đã phong thánh cho cô và đặt Phanasia làm gương mẫu cho những ai ái mộ phép lần hạt Mân côi.
|
NGÀY 24
×
Việc thứ hai người ta quen làm để tôn sùng Đức Mẹ là mang Áo Đức Mẹ
1. Dòng Carmêlô được thành lập trước hết, trên núi Carmêlô bên Do-Thái. Ban đầu, dòng ấy nổi tiếng đông đúc và thánh thiện. Nhưng năm 1248, thời người Hồi giáo nổi lên tàn phá đạo Công giáo, sát hại giáo dân và tu sĩ, dòng ấy bị tan rã.
Bấy giờ thánh Simong Stoc đang làm Bề trên cả nhà dòng. Người thương tiếc và đêm ngày cầu xin Đức Mẹ liệu cách thế tu bổ lại nhà dòng.
Sau mấy năm ăn chay cầu nguyện, Đức Mẹ hiện ra, tay cầm hai miếng nhung nhỏ bằng bàn tay, có hai giây đính hai miếng vải lại với nhau. Đức Mẹ trao hai miếng nhung ấy cho người và bảo rằng: “Con hãy nhận áo này, làm áo riêng của dòng Mẹ, cũng là dấu Mẹ thương yêu phù hộ dòng Carmêlô và những người thuộc dòng ấy cách riêng. Áo này cứu người ta khỏi những cơn nguy khốn, là áo ban sự bình an, là tượng trưng tình liên kết cùng Mẹ. Ai chết đang khi mang áo này, thì chẳng phải lửa đời đời thiêu đốt”.
Nhờ ơn Đức Mẹ, từ đó có nhiều người xin vào dòng, chẳng bao lâu dòng lại được đông như trước. Giáo dân nghe biết gốc tích áo Đức Mẹ, lại thấy Đức Mẹ che chở cách riêng những ai mang áo ấy, đều xin vào hội và mang áo Đức Mẹ mỗi ngày một đông.
2. Những ơn ích bởi sự vào hội và mang áo Đức Mẹ thì rất nhiều và trọng lắm. Đây chỉ là một vài ơn ích.
Đức Mẹ đã hứa cùng thánh Simong rằng:
“Những ai mang áo này, khi chết, không phải lửa đời đời thiêu đốt”. Nghĩa là ai mang áo Đức Mẹ mà chết khi mắc tội trọng thì Đức Mẹ sẽ giúp kẻ ấy được ăn năn hối cải.
Đức Mẹ đã phán bảo Đức Giáo Hoàng Gioan Rằng: “Những ai vào hội Đức Mẹ, giữ đức trinh khiết theo bậc mình và đọc kinh tiểu nhật khóa Đức Mẹ hằng ngày, khi chết sẽ được Đức Mẹ cứu khỏi luyện ngục ngày thứ bảy sau khi kẻ ấy qua đời. Ai không đọc kinh tiểu nhật khóa được thì phải ăn chay các ngày Giáo hội buộc và kiêng thịt các ngày thứ sáu quanh năm trừ ngày lễ Sinh Nhật Chúa Giêsu”.
Những người vào hội áo Đức Mẹ được thông công các việc lành của dòng Carmêlô và hội áo Đức Mẹ trong cả Giáo-Hội.
Tòa thánh đã ban nhiều ân xá cho những người mang áo Đức Mẹ.
Ai mang áo Đức Mẹ, được Đức Mẹ nhận làm con và được người phù hộ nâng đỡ.
Vả lại áo Đức Mẹ là thuẫn mộc vững chắc giữ ta khỏi thù địch. Xưa nay biết bao người vì mang áo Đức Mẹ, được thoát khỏi những cơn cheo leo hồn xác. Biết bao tội nhân mang áo Đức Mẹ, đến giờ chết được ơn sám hối.
Áo Đức Mẹ chữa cả những nguy hiểm phần xác. Có tích nhà dòng bị hỏa hoạn lửa đang bốc ngùn ngụt, có người cầm áo Đức Mẹ quăng vào, lửa liền tắt ngay. Một người lính vào trận, bị đạn bắn vào áo Đức Mẹ đang mang trong mình, đạn chối người lính chẳng phải nao. . . và còn nhiều tích khác như vậy.
3. Vậy ta phải trọng kính áo thánh ấy vì là của trọng chính Đức Mẹ ban cho. Ta hãy mang áo ấy trong mình hằng ngày, vì là dấu riêng của con cái Đức Mẹ. Nhất là trong giờ chết, ta có mang áo ấy thì Đức Mẹ sẽ phù hộ ta được chết lành bằng yên.
Lạy Mẹ rất thánh, chúng con xin vào hội áo Đức Mẹ và mang áo thánh ấy cho đến trọn đời.
Gặp cơn hiểm nghèo phần hồn phần xác chớ gì áo thánh ấy là khí giới mạnh sức cứu chữa chúng con. Đến giờ chết, xin Mẹ cứ áo ấy mà nhận chúng con là con riêng của Đức Mẹ đưa chúng con về Thiên đàng cùng Đức Mẹ đời đời.
Thánh Tích:
Trong sách Thánh Mẫu phương danh, thánh Ligôriô kể truyện này: Ở tỉnh Persusia bên Ý, có một người làm văn tự bán linh hồn cho quỉ dữ, để nhờ nó giúp báo thù một người kia. Khi quỉ dữ đã giúp anh ta báo thù người kia rồi, thì đưa anh ta đến khúc sông. Quỉ dữ bắt anh ta phải đâm xuống sông nếu không sẽ bắt cả hồn xác anh xuống hỏa ngục.
Anh chàng vô phúc ấy sợ chết nên bảo quỉ dữ rằng: “Anh hãy đẩy tôi xuống, vì tôi không đủ can đảm để gieo mình xuống”.
Quỉ dữ nói rằng: “Anh hãy bỏ áo Đức Mẹ đi thì tôi mới đẩy được”. Biết quỉ không làm gì được mình vì có áo Đức Mẹ, anh ta nhất định không chịu bỏ áo ấy ra.
Đôi bên giằng co một lúc, quỉ thất bại bỏ đi.
Người tội lỗi ấy, được Đức Mẹ chữa mình phần hồn phần xác, thì động lòng hối cải. Để biết ơn Đức Mẹ, anh ta họa một bức tranh về tích truyện xảy ra ở bờ sông, và treo ở bàn thờ Đức Mẹ trên bàn thờ tỉnh Perusia, để thiên hạ muôn đời ca tụng lòng nhân từ Đức Mẹ đối với những con cái mang áo Người.
|
NGÀY 25
×
Việc thứ ba người ta quen làm để tôn sùng Đức Mẹ là mừng các ngày lễ của Người
Giáo Hội đã lập nhiều lễ để kính Đức Mẹ hơn các thánh khác, vì: Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, là Nữ vương trên trời dưới đất, có quyền thế và cao trọng hơn các thánh khác.
Giáo Hội biết Đức Mẹ có quyền thế và hay bào chữa cho người ta trước mặt Thiên-Chúa, nên đã lập nhiều lễ, để người ta có dịp chạy đến Đức Mẹ xin Người ban ơn. Vua chúa thế gian thường hay ân xá cho dân sự, phóng thích tù nhân trong những ngày lễ, ngày kỷ niệm. Đức Mẹ cũng vậy. Người rộng tay ban phát nhiều ơn cho những ai cầu xin Người trong những Ngày lễ kính Người.
Các thánh khác còn ban ơn cách riêng cho những người cầu xin các thánh trong những ngày lễ của mình. Thánh Têrêxa nói: “Năm nào lễ thánh Giuse, tôi cũng được Người ban cho tôi những ơn tôi cầu xin cùng Người”.
Ngày lễ Đức Mẹ lên trời, các linh hồn ở luyện ngục còn được Đức Mẹ thương xót cứu vớt. Phương chi ta còn ở thế gian, là nơi chiến trường đầy nguy hiểm đáng Đức Mẹ thương xót hơn. Nhưng muốn Đức Mẹ ban ơn cách riêng trong những ngày ấy ta phải mừng lễ Người cho sốt sắng.
Muốn vậy, hai ba ngày trước lễ, ta phải dọn linh hồn xứng đáng, làm ít nhiều việc lành kết thành bó hoa tươi xinh dâng cho Người những ngày lễ. Có nhiều người nhân đức có thói quen ăn chay ngày trước lễ. Chính ngày lễ ta phải đi xưng tội, dâng lễ, rước lễ, nhất là dùng ngày ấy để dâng mình cho Đức Mẹ, và làm nhiều việc lành khác dâng cho Người.
Lạy Mẹ rất thánh, chúng con đã bỏ qua nhiều lễ hoặc chẳng mừng cho sốt sắng những ngày lễ Đức Mẹ. Chúng con đã bỏ những dịp thuận tiện để cầu xin Đức Mẹ. Từ nay chúng con sẽ hết sức mừng những ngày lễ Đức Mẹ sốt sắng, mong Đức Mẹ đổ ơn xuống cho chúng con phần hồn phần xác.
Thánh Tích:
Xưa nay không có nơi nào người ta mừng lễ Đức Mẹ trọng thể cho bằng ở Lộ-đức, nhất là những ngày lễ trọng như: Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, lễ Truyền Tin, lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, lễ Đức Mẹ Lên Trời, lễ Mân côi.
Ba bốn ngày trước lễ, người bốn phương đã lũ lượt kéo đến Lộ-đức như nước chảy. Những bệnh nhân đủ thứ đã được chở đến mấy ngày trước. Trước hết. Họ đến quì cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ, trên cửa hang, chỗ Đức Mẹ hiện ra. Có những bà nhìn thấy Đức Mẹ đẹp đẽ nhân từ, quá cảm động rớt nước mắt. Họ cầu nguyện một hồi lâu, rồi đi uống nước suối Đức Mẹ. Người ta kéo lên núi viếng nhà thờ Mân côi, là hai thánh đường nguy nga nhất, họ đọc kinh cầu nguyện, xưng tội, chầu Thánh Thể ở đấy.
Trước cửa hang đá thì không lúc nào ngớt người đến quì lần hạt. Họ vui thích lần hạt ở trước hang đá, có khi đôi ba nghìn người một trật. Người ta lần hạt suốt ngày suốt đêm.
Chiều hôm trước lễ, người ta rước tượng Đức Mẹ quanh sườn núi, đèn nến sáng rực như ban ngày.
Chính ngày lễ, các thầy cả kế tiếp nhau làm lễ, từ sáng sớm cho đến non trưa mới xong. Có tới mấy vạn người rước lễ.
Nửa buổi có lễ trọng. Sau lễ tiếp theo cuộc rước Thánh Thể quanh nhà thờ. Người ta đã khiêng sẵn những bệnh nhân nằm la liệt hai bên đường Chúa sắp đi qua. Thánh Thể Chúa đi qua, họ kêu lên: “Lạy Chúa Giêsu con vua Đavít xin thương chúng tôi cùng. Nếu Chúa muốn, thì chúng tôi được khỏi”. Những bệnh nhân kiệt sức, không kêu được thì người khác kêu giúp: “Lạy Chúa, người Chúa yêu nằm liệt đây xin Chúa Chữa họ”. Cảnh tượng thật cảm động, chẳng khác gì cảnh tượng hồi Chúa còn ở thế gian trên đất Palestine.
Thánh Thể vừa đi qua, bệnh nhân được khỏe lại, chạy theo tung hô Chúa. Những người theo rước thấy Chúa làm phép lạ tỏ tường thì dâng lời đồng thanh ca ngợi quyền thế và lòng từ ái Chúa.
Chiều đến, người ta lại đến nhà thờ đọc kinh, lần hạt, nghe giảng và rước tượng Đức Mẹ quanh sườn núi trọng thể hơn hôm trước. Sau cuộc rước tượng, có nhiều người ở lại đọc kinh suốt đêm đến sáng hôm sau lễ đoạn mới ra về.
Những người đi mừng lễ ở Lộ-đức về đều nói không nơi nào mừng lễ Đức Mẹ sốt sắng trọng thể bằng ở đấy.
Người ta được xem thấy nơi Đức Mẹ hiện ra, suối nước của Đức Mẹ và nhất là được mục kích những phép lạ Đức Mẹ chữa các bệnh nhân, thì thêm lòng tin cậy và mến yêu Đức Mẹ.
Những người mừng lễ Đức Mẹ sốt sắng như thế, chắc sẽ được Người ban nhiều ơn ở đời này và đời sau trên Thiên đàng
|
NGÀY 26
×
Việc thứ tư người ta quen làm để tôn sùng Đức Mẹ là năng đọc kinh Kính mừng
1. Trong các kinh người ta quen đọc để cầu xin Đức Mẹ, chẳng có kinh nào đẹp lòng Đức Mẹ cho bằng kinh Kính Mừng.
Đó là những lời Sứ thần truyền tin cho Đức Mẹ, là lời bà thánh Isave ca ngợi Đức Mẹ, cũng là lời Giáo Hội thêm vào để tung hô Đức Mẹ.
Đọc kinh Kính Mừng, người ta nhắc lại cho Đức Mẹ tin vui mừng Sứ thần đã đem đến cho Người, và phúc trọng Thiên Chúa ban cho Người được làm Mẹ Con Thiên Chúa. Đọc kinh Kính Mừng, người ta ca ngợi những phúc cả cao đầy ở nơi Đức Mẹ từ lúc chịu thai, khi ở thế gian và trót đời Người.
Đọc kinh ấy, người ta tóm lại những lời ca tụng Đức Mẹ trong các sách của mọi thời đại.
Đức Mẹ đã tỏ cho bà thánh Melthiđa biết không kinh nào làm đẹp lòng Đức Mẹ cho bằng kinh Kính Mừng. Chẳng những thế, không kinh nào sinh nhiều ơn ích cho người ta bằng kinh ấy.
Thánh Bênađô kể: chẳng lần nào ta đọc kinh ấy mà Đức Mẹ chẳng ban ơn. Một ngày kia, ông thánh đi qua tượng Đức Mẹ vừa đi vừa đọc kinh Kính Mừng. Đọc vừa xong, ông thánh thấy Đức Mẹ gật đầu tỏ ý bằng lòng.
Thầy Alanô, dòng Đa-minh nói: “Khi tôi đọc kinh Kính Mừng, các thánh nam nữ trên trời reo mừng, các quỉ dữ hỏa ngục kinh khiếp, tôi cảm thấy hết lo buồn, hết khô khan thấy thêm lòng ghét tội và đầy lòng mến Chúa”.
Không ai có thể diễn tả hết sự ngọt ngào êm ái của kinh Kính Mừng.
Có nhiều tích làm chứng Đức Mẹ đã ban nhiều ơn cho những người sốt sắng đọc kinh Kính Mừng. Có người bị những cơn cám dỗ mãnh liệt, kêu xin Đức Mẹ và đọc kinh Kính Mừng liền được khỏi ngay.
Có người suốt đời khô khan tội lỗi, chỉ đọc mỗi ngày một kinh Kính Mừng mà đến giờ chết, Đức Mẹ hộ giúp được ăn năn hối cải. Có những người bị quỉ dữ cám dỗ làm khổ, được khỏi, vì đọc đi đọc lại kinh Kính Mừng. Nhiều người bị tai nạn hầu chết mà được Đức Mẹ cứu thoát, là vì miệng họ không ngớt đọc kinh Kính Mừng.
2. Vì là một kinh đẹp lòng Đức Mẹ nhất, nên ta hãy đọc kinh ấy cho sốt sắng. Từ rạng đông, ban trưa, đến lúc chiều tối, theo tiếng chuông, ta hãy dâng lên những lời ca ngợi chào mừng Đức Mẹ đầy ơn phúc: đây Sứ thần truyền tin cho Đức Mẹ được làm Mẹ Thiên Chúa. Đây Ngôi Hai đã bỏ trời xuống thế trong lòng Trinh Nữ Maria! Theo tiếng chuông Ave, hàng ngàn giáo dân hãy cúi đầu đồng thanh:
“Chốc ấy Ngôi thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng tôi. . .” Tiếp đến lời chào: “Kính mừng Maria” sốt sắng vang dội.
Khi gặp những cơn cám dỗ cheo leo, hãy mau đọc kinh Kính Mừng.
Sáng ngày khi thức dậ?, buổi tối khi đi ngủ, cũng đừng quên nhớ đến Đức Mẹ và đọc kinh Kính Mừng.
Phải đọc kinh ấy với một tâm hồn sốt sắng, đơn sơ như người con ca ngợi Mẹ, thành thực như Sứ thần chào kính Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ có phúc trọng hơn mọi phụ nữ. Xưa Mẹ đã được Sứ thần Thiên Chúa hết lòng cung kính kính mừng Mẹ. Nay chúng con cũng hết lòng mượn lời Sứ thần ca tụng kính mừng Mẹ muôn đời hạnh phúc.
Thánh Tích:
Có một học sinh tên là Antoniô, đậu tú tài, cha mẹ mừng rỡ thưởng cho anh ta rất nhiều tiền, lại cho đi du lịch bên Balê, một kinh thành có tiếng xa hoa, với những tòa nhà lộng lẫy, với những lối ăn chơi thỏa thích.
Trước khi Antoniô lên đường, có một bà nhờ Antoniô một việc, là vào nhà thờ Đức Mẹ thắng trận ở Balê, đọc một kinh Kính Mừng cầu nguyện cho bà ấy.
Antoniô vốn khô khan, thấy bà nhờ việc ấy thì không được hài lòng mấy, phải miễn cưỡng nhận lời bà ấy dặn. Antoniô lưu lại Balê 15 ngày, dong chơi khắp mọi nơi. Mãi đến lúc ra về, Antoniô mới nhớ đến lời bà lão dặn. Lựa lúc vắng người, Antoniô lẻn vào nhà thờ Đức Mẹ, quì một xó, anh liền cảm thấy mình đầy tội lỗi. Rầu nét mặt, đôi mắt đã bắt đầu sa lệ, giọt lệ thống hối đầu tiên.
Chợt lúc ấy có linh mục chính xứ vào nhà thờ, thấy Antoniô đứng khóc liền hỏi: “Con đi đâu? Có việc gì? Sao lại khóc?”. Antoniô chẳng thưa lại và vẫn nức nở khóc. Linh mục cầm lấy tay Antoniô nói rằng: “Đây hẳn là một chiên lạc được Đức Mẹ dắt về cùng Chúa. Con hãy tạ ơn Đức Mẹ, Người đã hết lòng thương con”.
Antoniô gạt nước mắt thưa: “Lạy Cha, con là kẻ có tội, xin Cha cứu lấy con”. Thầy cả khuyên bảo, yên ủi và giúp Antoniô xét mình xưng tội. Antoniô xưng tội, rước lễ sốt sắng và lưu lại mấy ngày tạ ơn Đức Mẹ rồi mới về, trong lòng vui sướng nhẹ nhàng.
Về đến nhà, anh kể lại đầu đuôi câu truyện cho mọi người biết hiệu lực của kinh Kính Mừng trong nhà thờ Đức Mẹ thắng trận.
Kinh Kính Mừng
Kính Mừng Maria đầy ơn phúc: Đức Chúa Trời ở cùng Bà; Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ.
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.
Kinh Lạy Đức Bà Maria
Lạy Đức Bà Maria: lạy Mẹ nhân thay! Con xin dâng mình con cho Đức Mẹ; mà cho được làm chứng con hết lòng làm tôi Đức Mẹ, thì ngày hôm nay (hoặc đêm hôm nay) con xin dâng con mắt, lỗ tai, miệng lưỡi, trái tim cùng trót cả và mình con cho Đức Mẹ. Lạy Đức Bà Maria, lạy Mẹ khoan thay! Này con thuộc về Đức Mẹ thì xin Đức Mẹ gìn giữ con như của riêng của Đức Mẹ vậy. Amen.
Ghi chú: Ai lấy lòng ăn năn sốt sắng mà đọc Kinh Kính Mừng và Kinh Lạy Đức Bà Maria, chiều hôm sớm mai, có ý cầu xin Đức Bà thêm sức cho mình được chống trả các chước ma quỉ cám dỗ, nhất là điều răn thứ sáu thì mỗi một ngày được ăn mày ân xá 100 ngày, những kẻ đọc hai kinh ấy chiều hôm sớm mai hàng ngày cho đủ một tháng, thì được ăn mày ơn đại xá, nhưng phải xưng tội chịu lễ, viếng nhà thờ cầu nguyện như ý Đức Giáo Hoàng.
|
NGÀY 27
×
Việc thứ năm người ta quen làm là năng đọc kinh cầu Đức Mẹ
Gốc tích Kinh cầu Đức Mẹ thì không ai được rõ, vì không có bút tích gì để lại. Chỉ biết rằng, vào khoảng năm 1000, giáo dân mọi nơi đầy lòng sùng kính Đức Mẹ, đặt ra nhiều kinh có những câu vắn tắt, kế tiếp nhau gọi là Kinh cầu. Những kinh ấy không được duy nhất.
Năm 1601, Đức Giáo Hoàng Clêmentê truyền giáo dân mọi nơi bỏ các bản kinh khác nhau và nhận bản kinh cầu quen đọc ở nhà thờ Đức Mẹ Laurêta. Đến nay mọi nơi chỉ còn đọc một kinh ấy gọi là kinh cầu Đức Mẹ Laurêta.
Cũng như kính Kính Mừng, kinh cầu là một kinh làm đẹp lòng Đức Mẹ hơn hết. Đọc kinh ấy người ta thứ tự lần lượt ca tụng phẩm chức, quyền thế và mọi nhân đức của Đức Mẹ.
Người ta xưng hô Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, là Mẹ Chúa Kitô, là Mẹ Đấng dựng nên muôn vật, là Mẹ Chúa Cứu thế, là Mẹ Đấng cội rễ mọi ơn lành.
Người ta ca ngợi: Đức Mẹ là Mẹ trinh khiết, Đức Mẹ toàn vẹn khiết trinh, Đức Mẹ vô nhiễm tội truyền, Đức Mẹ không vương bóng tội, Đức Mẹ quyền thế cao cả, Đức Mẹ từ bi lân tuất, Đức Mẹ trinh trong và bao dung.
Người ta ca tụng lòng từ bi Đức Mẹ: Đức Mẹ cứu giúp kẻ khốn cùng, bào chữa các tội nhân, nâng đỡ những người đau khổ, che chở những người đau yếu; người ta suy tôn Đức Mẹ là Nữ vương các Thiên thần và các thánh nam nữ. . .
Kinh cầu có 49 câu, mỗi câu là một bông hoa xinh tươi dâng lên Đức Mẹ, mỗi câu là lời ca dịu dàng, mỗi câu là một bản kinh sốt sắng. Cả kinh cầu là một bản nhạc hùng hồn và êm ái, càng đọc người ta càng vui thích, càng nghe càng thấy dịu dàng. Có người đã thú nhận: ở Lộ-đức, khi con được nghe hàng ngàn người đồng thanh đọc kinh cầu, con có cảm tưởng như được nghe một bản nhạc du dương, lần nào nghe con cũng cảm động chảy nước mắt. Có những tội nhân nghe được kinh ấy, phải thốt lời ăn năn thống hối.
Câu thưa: “Cầu cho chúng con” lại là một tiếng kêu van thảm thiết, như một tên bắn trúng vào trái tim Mẹ, để mở rộng kho từ ái Mẹ. Đâu đâu khi làm việc kính Đức Mẹ, người ta cũng đọc Kinh cầu Đức Mẹ, vì là một kinh diễn tả đầy đủ những đức tính của Đức Mẹ. Đọc lên, người ta thấy sốt sắng lạ thường.
Ta phải quí trọng kinh ấy, ta phải năng đọc, và đọc sốt sắng. Đó là những lời ca tụng đẹp lòng Đức Mẹ, và những tiếng kêu van thảm thiết nài xin lòng từ ái Mẹ.
Thánh Tích:
Cha Auriêma nói về lòng tôn sùng Đức Mẹ có kể tích này:
Ở Normania bên Pháp, người ta bắt được tướng cướp đem nộp cho nhà chức trách. Nhà chức trách điều tra lý lịch, thấy anh ta đã can án nhiều vụ cướp thì lên án xử tử. Lý hình vừa sắp chém đầu, thì anh ta kêu lên: “ Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ thương cho con được xưng tội trước khi chết”. Người ta sợ hãi liền tìm thày cả cho anh ta xưng tội. Thầy cả giải tội hỏi anh ta xưa nay có làm việc gì đáng Đức Mẹ thương, thì anh ta trả lời: “Khi còn bé con siêng năng đọc kinh cầu Đức Mẹ, và đọc các ngày thứ bảy”.
Suy tích này ta biết Kinh cầu Đức Mẹ có hiệu lực và người năng đọc kinh ấy được Đức Mẹ thương yêu dường nào.
Kinh cầu Đức Bà
Xin Chúa thương xót chúng con.
Thưa: Xin Chúa thương xót chúng con.
Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Thưa: Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Xin Chúa thương xót chúng con.
Thưa: Xin Chúa thương xót chúng con.
Chúa Kitô nghe lời cho chúng con.
Thưa: Chúa Kitô nhậm lời chúng con.
Đức Chúa Cha Ngự trên trời là Đức Chúa Trời thật.
Thưa: Thương xót chúng con.
Đức Chúa con chuộc tội cứu thế là Đức Chúa Trời thật.
Thưa: Thương xót chúng con.
Đức Chúa Thành-Thần là Đức Chúa Trời thật.
Thưa: Thương xót chúng con.
Rất thánh Đức Bà Maria.
Thưa: Cầu cho chúng con.
(Câu nào cũng thưa như vậy)
Rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời.
Rất thánh Nữ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh.
Đức Mẹ Chúa Kitô.
Đức Mẹ thông ơn Thiên Chúa.
Đức Mẹ cực thanh cực tịnh.
Đức Mẹ tuyền vẹn mọi đàng.
Đức Mẹ chẳng vướng bợn nhơ.
Đức Mẹ rất đáng yêu mến.
Đức Mẹ cực mầu cực nhiệm.
Đức Mẹ chỉ bảo đàng lành.
Đức Mẹ sinh Chúa Tạo thiên lập địa.
Đức Mẹ sinh Chúa Cứu Thế.
Đức Mẹ cực khôn cực ngoan.
Đức Mẹ rất đáng kính chuộng.
Đức Mẹ rất đáng ngợi khen.
Đức Mẹ có tài có phép.
Đức Mẹ có lòng khoan nhân.
Đức Mẹ trung tín thật thà.
Đức Bà là gương nhân đức.
Đức Bà là tòa Đấng khôn ngoan.
Đức Bà làm cho chúng con vui mừng.
Đức Bà là Đấng trọng thiêng.
Đức Bà là Đấng đáng tôn trọng.
Đức Bà là Đấng sốt mến lạ lùng.
Đức Bà như hoa hường mầu nhiệm vậy.
Đức Bà như lầu đài Đa-vít vậy.
Đức Bà như tháp ngà báu vậy.
Đức Bà như đền vàng vậy.
Đức Bà như hòm bia Thiên Chúa vậy.
Đức Bà là cửa Thiên đàng.
Đức Bà như sao mai sáng vậy.
Đức Bà cứu kẻ liệt kẻ khốn.
Đức Bà bầu chữa kẻ có tội.
Đức Bà yên ủi kẻ âu lo.
Đức Bà phù hộ các giáo hữu.
Nữ vương các thánh thiên thần.
Nữ vương các thánh Tổ tông.
Nữ vương các thánh Tiên tri.
Nữ vương các thánh Tông đồ.
Nữ vương các thánh Tử vì đạo.
Nữ vương các thánh Hiển tu.
Nữ vương các thánh Đồng trinh.
Nữ vương các thánh Nam cùng các thánh Nữ.
Nữ vương chẳng hề mắc tội tổ tông.
Nữ vương linh hồn và xác lên trời.
Nữ vương truyền phép rất thánh Mân côi.
Nữ vương ban sự bằng yên.
Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.
Thưa: Chúa tha tội chúng con.
Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.
Thưa: Chúa nhậm lời chúng con.
Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.
Thưa: Chúa thương xót chúng con.
Lạy rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời xin cầu cho chúng con.
Thưa: Đáng chịu lấy những sự Chúa Kitô đã hứa.
Lời Nguyện:
Chúng con lạy ơn rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời, chúng con trông cậy Đức Bà là Chúa bầu chúng con: xin cho chúng con biết lòng Đức Mẹ yêu dấu con mọn này còn ở dưới thế cách xa mặt Mẹ. Đức Chúa Giêsu xưa xuống thế gian chẳng bỏ loài kẻ có tội, lại liều mình chịu nạn chịu chết vì hết cả và loài người ta; Đức Mẹ cũng một lòng theo Con như vậy. Mẹ ôi! Khoan thay! Nhân thay! Chớ trở mặt đi mà chẳng nhìn chúng con; xin Đức Mẹ thương xem dạy dỗ yên ủi chúng con. Con cậy Mẹ có phép tắc nhiều trên hết Thiên thần cùng trên hết các thánh. Chúng con còn ở dưới thế này như kẻ đi biển cả vậy. Đức Mẹ là như ngôi sao chính ngự ở trời bên bắc vậy, xin Đức Mẹ dẫn đàng cho chúng con được theo, kẻo phải siêu chìm sa hỏa ngục vô cùng; chúng con trông Đức Mẹ cho chúng con ngày sau được vào cửa thiên đàng, xem thấy mặt Đức Chúa Giêsu cùng mặt Đức Mẹ, được hưởng muôn muôn sự phúc gồm hết mọi sự tốt lành chẳng hay hết chẳng hay cùng. Amen.
|
NGÀY 28
×
Việc thứ sáu người ta quen làm để tôn sùng Đức Mẹ là năng đọc kinh Lạy Nữ Vương
1. Đây là gốc tích kinh Lạy Nữ Vương. Vào khoảng năm 1100, bên Đức, có một gia đình sang trọng đạo đức, sinh được một con trai đặt tên là Herman. Herman lọt lòng với một hình thù xấu xa lại tàn tật. Đứa bé thấp lùn, mồm méo, lớn lên lưng còng như đai thùng, ăn nói thì ngập ngọng, lại thọt một chân. Tâm trí thì u mê tối tăm, dáng bộ ngờ nghệch không biết gì.
Cha mẹ thấy con mình tàn tật dốt nát làm vậy thì thương hại, lại xấu hổ không cho con ra khỏi nhà.
Herman lên 12 tuổi, cha mẹ rước một thầy dòng về nhà để dạy con mình. Suốt hai năm trời, Herman chỉ học được mấy lẽ cần trong đạo như : Một Thiên Chúa ba ngôi, dựng nên trời đất, tổ tông phạm tội, Ngôi Hai xuống thế làm người trong lòng Trinh-Nữ Maria, chịu chết trên thánh giá để chuộc tội thiên hạ. . .
Herman lên 16 tuổi mới đủ trí khôn nhận thấy mình tàn tật và kém chúng bạn. Herman sinh buồn bã, đêm ngày những than thân tủi phận.
Thầy dòng thấy học sinh của mình buồn bã đêm ngày, thì khuyên bảo cậu chạy đến cùng Đức Mẹ và vững vàng trông cậy Người cứu giúp. Herman vâng lời thầy, cầu xin Đức Mẹ ba năm trời, mà chẳng được kết quả gì. Mặc dầu vậy Herman không ngã lòng, cứ tiếp tục cầu nguyện.
Một ngày kia, Herman cảm thấy mình sầu khổ hơn mọi khi, liền đến trước bàn thờ Đức Mẹ kêu van rằng : “Lạy Mẹ là Nữ-Vương trời đất, là Mẹ nhân ái, là sức sống, là nguồn vui, là hy vọng của con, con là con cháu khốn nạn của Evà, ở chốn khách đầy đau khổ, kêu van xin Mẹ ghé mặt thương xót. Đến giờ sau hết xin cho con được về trời xem thấy Chúa Giêsu Con Mẹ, lạy Mẹ nhân ái”.
Sau mấy lời kêu van thống thiết, Herman thấy Đức Mẹ hiện ra sáng láng tốt đẹp và bảo: “Herman, con yêu của Mẹ, Mẹ đã nghe lời con cầu xin. Mẹ cho con chọn một trong hai điều này: một là khỏi các bệnh tật phần xác, hai là được trở nên thông thái, con muốn điều nào tùy ý”.
Herman bấy lâu khổ cực vì bệnh tật cũng như đau lòng vì trí khôn thấp kém. Cậu nghĩ ngợi một lúc, rồi quả quyết trả lời : “Con xin Mẹ trí thông minh”. Điều Herman xin đẹp lòng Đức Mẹ. Người cho Herman được trí thông minh lại cho khỏi các tật bệnh phần xác nữa.
Từ đó Herman chăm chỉ học hành, nổi tiếng thông minh vượt hẳn chúng bạn. Sau Herman trở nên một nhà tu hành thông thái chép nhiều sách có giá trị. Để tạ ơn Đức Mẹ, thầy Herman đặt lại kinh Nữ Vương cho mọi người đọc.
2. Kinh Lạy Nữ vương là những lời cầu nguyện vắn tắt, khiêm nhường đơn thật, và là những lời kêu van thảm thiết của một tâm hồn đau khổ, trong lúc cô đơn, chỉ còn biết nương tựa cậy trông vào Đức Mẹ. Cũng là một kinh giáo dân quen đọc và đọc nhiều lần trong một ngày.
Trong các tu viện, lúc ngày tàn, người ta thấy các thầy dòng hội nhau trong nhà thờ hát kinh ấy với giọng điệu chân thành yêu mến sốt sáng.
Xưa thánh Vixentê bị bọn cướp bể bắt sống bán đi làm tôi. Trong những năm bị lưu đầy khổ sở, ông thánh đọc kinh Nữ Vương để tự yên ủi mình và được sức mạnh vui chịu mọi đau khổ. Nhiều người ngoại giáo nghe người đọc kinh ấy sốt sắng thảm thiết, thì cảm động và xin theo đạo.
Vậy ta hãy quí trọng và năng đọc kinh Lạy Nữ Vương. Nhất là lúc gặp đau khổ, ta hãy ngửa mặt kêu xin Mẹ thương xót ta ở chốn lưu đày này, và đến giờ sau hết xin Mẹ đem ta về trời, xem thấy Chúa Giêsu, Con Mẹ đời đời.
Thánh Tích:
Trong lịch sử dòng thánh Augustinô, kể tích một thầy dòng đạo đức đã có tuổi, mắc bệnh nặng sắp chết. Nằm trên giường bệnh, thầy nghĩ đến giờ phải đứng trước tòa Chúa phán xét thì lo buồn khiếp sợ. Anh em trong dòng an ủi và khuyên thầy hãy vững vàng tin ở lòng nhân từ vô cùng Thiên Chúa nhưng thầy cũng chẳng bớt sợ hãi lo buồn.
Có lần thầy quá khiếp sợ đến nỗi phát khóc một hồi lâu. Bỗng chốc Đức Mẹ hiện ra lấy lời dịu dàng phán bảo rằng: “Ớ con, con đừng sợ! Lúc còn khỏe, ngày nào con cũng đọc kinh Lạy Nữ vương, ước mong được xem thấy Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ nghe lời con sau khi chết, Mẹ sẽ đưa con về trời xem thấy Chúa Giêsu muôn đời”.
Bệnh nhân bấy giờ mới yên lòng và vững vàng cậy trông cho đến khi nhắm mắt bằng yên trong tay Đức Mẹ.
Kinh Lạy Nữ Vương
Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy, thân lạy Mẹ. Chúng con con cháu Evà, ở chốn khách đầy, kêu đến cùng Bà; chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khẩn Bà thương. Hỡi ơi! Bà là Chúa bầu chúng con, xin nghé mặt thương xem chúng con, đến sau khỏi đầy, xin cho chúng con được thấy Đức Chúa Giêsu Con lòng Bà gồm phúc lạ.
Ôi khoan thay! Nhân thay! Dịu thay! Thánh Maria trọn đời đồng trinh. Amen.
|
NGÀY 29
×
Việc thứ bảy người ta quen làm để tôn sùng Đức Mẹ là năng đọc Kinh Hãy Nhớ
1. Thánh Bênađô là một bậc đại thánh, rất nhiệt thành trong việc rao giảng nước Chúa và cổ động phong trào sùng kính Đức Mẹ. Người đã soạn nhiều bài giảng rất hay để ca tụng Đức Mẹ, hay nhất là bài giảng về ngày lễ Đức Mẹ lên trời. Ít lâu sau có một người trích một đoạn trong bài giảng ấy đặt ra kinh Hãy nhớ. Nên người ta gọi kính ấy là kinh ông thánh Bênađô.
Cũng là một kinh người ta năng đọc và rất đẹp lòng Đức Mẹ.
Ở Balê, có một người cũng tên là Bênađô, lúc còn thanh niên, mê theo đường tội, sau nhờ ơn Đức Mẹ và năng đọc kinh Hãy nhớ nên được lòng hối cải và sau chịu chức Linh mục, làm tuyên úy các tù nhân bị án tử.
Để tạ ơn Đức Mẹ, cha Bênađô khuyên bảo mọi người năng đọc kinh Hãy nhớ. Người quả quyết rằng: Dù tội nhân cứng lòng thế nào, nếu đọc kinh Hãy nhớ thì chắc chắn sẽ được ơn hối cải. Người quả quyết như thế vì đã mục kích nhiều lần.
Cha Bênađô lại thuê in hàng vạn bản kinh ấy, phát đi các nơi cho mọi người đọc, và chép một quyển sách để lại những phép lạ Đức Mẹ đã làm để cứu những ai hết lòng trông cậy và sốt sáng đọc kinh ấy.
Biết bao tội nhân cứng lòng đã được ơn sám hối, biết bao bệnh nhân được lành khỏi, biết bao nhiêu người mắc cơn nguy hiểm phần hồn phần xác được khỏi, vì đã vững vàng trông cậy đọc kinh Hãy nhớ.
Kinh Hãy nhớ xưng hô lòng trông cậy vững vàng ở quyền thế từ ái Đức Mẹ. Sự trông cậy là chìa khóa mở kho tàng chứa nguồn ân sủng của Đức Mẹ.
Lạy Thánh Nữ đồng trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bào chữa cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời.
Đó là cả một bài ca lòng lân tuất không bờ bến của Đức Mẹ. Thật vậy, lòng từ ái Mẹ mênh mông như biển cả. Người cứu vớt ban ơn cho mọi thứ người. Người chẳng hề từ chối ai đến kêu cầu Mẹ và đọc kinh Hãy nhớ. Cho nên người ta gọi kinh ấy là kinh Đức Mẹ làm phép lạ. Vậy ta hãy năng đọc kinh ấy cho sốt sắng mọi ngày trong đời ta.
Thánh Tích:
Thời Cha Bênađô giảng đạo, có một tay hung đồ bị án xử tử. Mặc dầu những lời khuyên van của Cha Bênađô, hắn ta cứng lòng nhất định không chịu xưng tội. Ngày xử án, Cha Bênađô lại hết lòng khuyên van, nhưng hắn chẳng nghe. Lần này Cha Bênađô không khuyên hắn xưng tội nữa, chỉ nài hắn ta đọc kinh Hãy nhớ. Mặc dầu những lời dỗ dành ngon ngọt, hắn ta cũng để ngoài tai. Cha Bênađô cố ép mãi, sau cùng hắn nể lòng gượng đọc hết kinh Hãy nhớ. Đọc dứt kinh, người ta trông thấy mặt hắn ta tái nhợt đi. Anh ta bị xúc động quá mạnh, giọt nước mắt đầu tiên đã bắt đầu từ từ rơi trên đôi má. Anh đã được ơn thống hối, và xin Cha Bênađô giúp mình xưng tội.
Nhờ sức mạnh của kinh Hãy nhớ, người cứng lòng ấy đã được ơn thống hối trước khi bị xử.
Kinh Hãy Nhớ
Lạy Thánh Nữ đồng trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời. Nhân vì sự ấy, con lấy lòng trông cậy than van chạy đến sấp mình xuống dưới chân Đức Mẹ là Nữ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh, xin Đức Mẹ đoái đến con là kẻ tội lỗi. Lạy Mẹ là Mẹ Chúa Cứu Thế, xin chớ bỏ lời con kêu xin, một dủ lòng thương mà nhận lời con cùng. Amen.
|
NGÀY 30
×
Việc thứ tám người ta quen làm để tôn sùng Đức Mẹ là làm tuần ba ngày hay chín ngày
1. Giáo dân có thói quen muốn xin Đức Mẹ ơn gì, hoặc xin cho tội nhân được hối cải, hay bệnh nhân được lành khỏi, hoặc xin khỏi ôn dịch thần khí hay khỏi mùa đói khát. . . thì cầu nguyện làm việc lành dâng cho Đức Mẹ đủ ba ngày hay chín ngày.
Ta quen gọi là làm tuần ba ngày, hay tuần chín ngày. Sự đó rất đẹp lòng Đức Mẹ và đáng Người ban ơn cho ta; ta cầu nguyện Đức Mẹ một lần thôi, mà còn được Đức Mẹ thương, phương chi cầu nguyện ròng rã ba ngày hay chín ngày liền. Cách cầu nguyện đó tỏ ra ta khiêm nhường, kiên nhẫn và đầy lòng tin tưởng ở Đức Mẹ.
Hằng năm biết bao người làm tuần ba ngày hay tuần chín ngày, đã được Đức Mẹ thương: người thì được ơn hối cải, người thì khỏi cheo leo phần hồn phần xác, người thì được công ăn việc làm. Có người lưu lạc đã được hồi hương, có người mất của lại tìm thấy, và còn biết bao ơn khác nữa. . .
2. Muốn làm tuần ba hay tuần chín ngày thì phải giữ những điều này:
Sự ta xin phải là sự lành, đẹp lòng Chúa và có ích cho linh hồn ta.
Trong tuần ấy phải xưng tội rước lễ vì chỉ ai có nghĩa cùng Chúa mới đáng Đức Mẹ thương ban sự ta có ý xin. Lại phải làm việc lành trong tuần ấy hơn mọi khi giữ lòng sạch tội hơn, đọc kinh cầu nguyện, làm phúc bố thí nhiều hơn. Hết mọi việc hãy dâng qua tay Đức Mẹ. Cuối tuần ta phải dâng mình cho Đức Mẹ, hết lòng tạ ơn Đức Mẹ.
Nếu ta chưa được ơn ta xin, thì lại làm hai, ba tuần nữa, vững vàng cầu xin cho đến khi được ơn ấy.
Ta hãy tin tưởng: xưa nay chưa hề nghe có ai chạy đến kêu xin Mẹ thương, mà Mẹ từ bỏ.
Lạy Mẹ Maria, là Đấng hay chữa kẻ khốn khó, yên ui kẻ khổ cực, ban ơn cho kẻ thiếu thốn, xin ghé mắt thương xem và nghe lời chúng con cầu xin.
Thánh Tích:
Truyện sau đây xẩy ra ở bên Pháp. Một ông tướng có lòng đạo, lại cậy trông và kính mến Đức Mẹ lắm. Ngoài hai vợ chồng trẻ và anh làm bếp, ông còn 3 đứa con đang còn măng sữa.
Ông phải thuê một chị sen để trông nom trẻ nhỏ. Chẳng may chị sen phải chứng động kinh. Bà vợ muốn đuổi chị sen về không nuôi nữa. Nhưng ông chồng cho thế là thiếu đức yêu người. Nên ông bảo cứ nuôi và chạy thuốc cho chị. Lại bảo cả nhà hợp ý cùng mình làm tuần chín ngày khấn xin Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp thương chữa người đầy tớ mình. Qua một tuần chín ngày, bệnh tình chị sen không thuyên giảm, lại càng tăng. Bà vợ hầu ngã lòng nói ra nói vào oán trách chồng. Nhưng, với lòng sốt sắng và cậy trông, ông bảo: “Bà đừng vội ngã lòng, chúng ta chưa được như ý, có khi vì Chúa muốn thử lòng chúng ta. Có khi vì lời cầu xin của chúng ta chưa đủ sốt sắng và tin tưởng. Vậy ta hãy làm tuần chín ngày khác và cứ tiếp tục cho đến khi được như lời khẩn nguyện, vì lời xưa Chúa phán 'Hãy xin thì sẽ được' có lẽ nào sai!”
Vì thế ngay từ sáng hôm sau cả nhà lại tiếp tục làm tuần chín ngày khác và cứ thế kéo dài mãi đến 4 lần 9 ngày mà bệnh chị sen không thấy bớt. Nhưng viên tướng chẳng sờn lòng chút nào, ông lại càng tăng lời cầu nguyện đêm ngày.
Một buổi sáng, đi lễ về, ông vào phòng, đóng cửa lại, sấp mình dưới tượng Đức Mẹ và kêu van: “Lạy Mẹ nhân lành, Mẹ biết lòng con kính mến và trông cậy Mẹ. Con đã quyết với bạn con: Mẹ sẽ không bỏ lời con cầu xin cũng như xưa nay chưa bỏ lời ai cầu khẩn Mẹ. Vậy để hiển danh Mẹ, xin Mẹ ban cho con ơn con xin Mẹ từ lâu”.
Cầu xin xong, ông thấy lòng vui mừng như niềm tin tưởng mong ước của ông đã thành sự thật. Ông tự nhủ: Mẹ đã nghe lời ta rồi. Mà thật, từ hôm ấy, chị sen không lên cơn động kinh nữa.
Tạ ơn Đức Mẹ muôn đời
|
NGÀY 31
×
Thành tâm kính mến Đức Mẹ. Các Thánh đều dạy: Ai thành tâm kính mến Đức Mẹ chắc sẽ được rỗi linh hồn
1. Thế nào là thành tâm kính mến Đức Mẹ?
Ta nhận thấy: có người hiến dâng toàn thân cùng mọi việc mình làm cho Đức Mẹ nhận Người làm Mẹ bênh vực và chỉ dẫn trong mọi công việc. Họ hết sức noi gương bắt chước Đức Mẹ. Giữ giới răn Chúa và sống cuộc đời đạo đức sốt sắng. Những người này thật xứng đáng là con cái thành tâm kính mến Đức Mẹ cách trọn hảo.
Lại nhiều người khác, cũng vui lòng hiến thân cùng mọi công việc mình làm cho Đức Mẹ, nhưng đôi khi còn sa ngã theo tính xác thịt lỗi giới răn Chúa. Họ chưa được vững vàng trong đường thánh thiện như hạng người trên. Nhưng, sau cơn yếu đuối, họ biết trở về cùng Chúa ngay, cậy nhờ Đức Mẹ giúp sức. Những người này cũng là con cái thành tâm mến Mẹ. Tuy có khi sa ngã, vì còn mang xác thịt loài người, nhưng biết ăn ở như tích người con phung phá trở lại.
Sau hết, còn một hạng người, chúng ta thường gặp. Họ là những người, tuy cũng có khi siêng năng đi lễ và đọc kinh cầu nguyện. Nhưng nói đúng, họ chỉ đạo đức sốt sắng lúc ngồi trong nhà thờ mà thôi. Còn đời sống hằng ngày thì những bê tha, tội lỗi, ích kỷ, cay nghiệt. . . Họ sống hời hợt không cố gắng hy sinh noi gương mến Chúa yêu người thành tâm kính mến Đức Mẹ đâu. Đối với họ, Đức Mẹ luôn luôn rộng lòng thương chờ đón họ. Vậy họ hãy cứ tiếp tục làm việc lành đã quen làm xưa nay. Họ hãy mau mau trở về cùng Chúa và Đức Mẹ, hãy thành thực yêu mến Mẹ đi, hãy ăn ở sốt sắng đạo đức thật.
2. Chúng ta hãy thành tâm kính mến Đức Mẹ cho vững vàng. Ta đừng bắt chước như ai: lúc được sự may mắn hoặc không bị tai ương thì sốt sắng cầu khẩn Đức Mẹ, còn lúc gặp sự trái ý buồn bực hoặc tai vạ phần xác hoặc bị cám dỗ trong tâm hồn thì sờn lòng cậy trông và lửa kính mến Đức Mẹ tắt dần. Những người ấy làm cho Đức Mẹ đau lòng biết mấy.
Lạy Mẹ Maria, nay là cuối tháng của Mẹ, chúng con tạ ơn Mẹ vì đã ban cho chúng con tháng vừa qua để tôn kính Mẹ, chúng con tạ ơn Mẹ vì các ơn Mẹ đã ban cho chúng con xưa nay và nhất là trong tháng này.
Lạy Mẹ, giờ đây, quì trước nhan thánh Mẹ, chúng con xin phó mình chúng con cho Me,?xin Mẹ vui lòng nhận lấy chúng con. Xin Mẹ ở bên chúng con liên, để khi vui lúc buồn, chúng con hằng làm đẹp lòng Chúa Giêsu và Mẹ. Xin Mẹ hãy ở gần chúng con, nhất là trong giờ chết, để đời chúng con, thành một đời kính mến Chúa và Mẹ. Và sau hết, xin đưa chúng con về cùng Mẹ ở trên thiên đàng.
Thánh Tích:
Xưa, ở thành Mi-lăng nước Ý, có Maria 19 tuổi, mồ côi cha từ thuở nhỏ. Con nhà nghèo khổ. Maria đi chăn chiên thuê để kiếm cơm ăn. Cô rất đạo đức sốt sắng. Cô có lòng yêu mến Đức Mẹ lắm. Thường khi chăn chiên một mình vắng vẻ, Maria hay lần hạt và hát kính Đức Mẹ.
Một hôm ngồi dưới bóng cây sồi, đang lúc Maria lên cung véo von ca ngợi Đức Mẹ chợt có ông chủ rạp hát thành Mi-lăng qua đấy. Nghe giọng du dương êm ái của cô, ông rất ngạc nhiên: nơi đồng ruộng mà có thiếu nữ hát hay như vậy. Ông rất khâm phục cái tài hiếm có của Maria. Ông vội dừng bước lân la gợi chuyện.
-”Chào cô, cô hát hay quá. Chẳng hay cô quê quán ở đâu, học nghề hát từ bao giờ mà giỏi thế. Nhưng tôi không khỏi không thương hại một người không biết dùng tài của mình, mà để cuộc đời phải vất vả tiều tụy như cô. Vậy nếu cô bằng lòng, tôi xin sẵn sàng giúp đỡ cô. Và tôi hy vọng: cô chỉ cần tập luyện thêm một thời gian ngắn là có thể trở nên danh ca vô địch, không rạp hát nào có thể hơn được, như thế dĩ nhiên cô sẽ hái ra tiền và chẳng bao lâu trở thành giàu có phú quí”
Maria lãnh đạm trả lời: “Dù ông cho tôi nhiều vàng bạc thế nào đi nữa, dù trở nên giàu có đến đâu, thì cũng không đời nào tôi đi theo ông, mà dùng miệng lưỡi này để ca hát điều hoa tình lãng mạn. Vì thế là tự gieo mình xuống hỏa ngục, và còn làm dịp cho nhiều người phải phạt trong biển lửa ấy nữa. Tôi đây, dù có ăn đói mặc rách, mà được sống đời trong sạch để kính mến Đức Mẹ, còn hơn là ở lầu son gác tía mà làm con hát. Thôi xin phiền ông đừng nói đến chuyện ấy nữa kẻo uổng công”
Ông chủ rạp hát biết có nói cũng bằng thừa nên ông hỏi thăm tìm vào nhà cô. Lúc gặp mẹ cô, ông nói chuyện thuê Maria làm con hát và hứa sẽ trả tiền nhiều cho cô. Vì đang gặp cơn túng quẫn, mẹ cô Maria nhận lời ngay.
Chăn chiên về, Maria biết chuyện thì buồn rầu vô cùng. Dù mẹ khuyên răn, dù chú dì giảng giải, cho đó là việc hiếu với mẹ và yêu các em, Maria không khỏi lo buồn và bối rối.
Đêm hôm ấy Maria trằn trọc đến sáng. Không biết nghe theo bên nào: Vâng lời mẹ đi làm con hát thì không thể giữ linh hồn trong trắng, đẹp lòng Chúa và Đức Mẹ được. . . Mà nếu không nghe lời mẹ, thì mẹ ghét bỏ, đánh mắng, và gia đình vẫn phải sống trong sự túng đói. Giữa lúc bối rối lo lắng, âu sầu, cô sực nhớ đến Đức Mẹ, cô vội quì gối, đôi mắt đẫm lệ ngước nhìn ảnh Đức Mẹ và nói: “Lạy Mẹ Maria rất nhân từ; xin Mẹ giúp con đừng bao giờ trở nên thù địch với Mẹ. Xin Mẹ giúp con quyết chí dù sống chết không bao giờ bỏ Mẹ”. Cầu nguyện xong, cô thấy mình khoan khoái nhẹ nhàng và bình tĩnh.
Trưa hôm sau, đúng hẹn, chủ rạp hát đưa xe đến dẫn Maria ra tỉnh. Trước lời đe loi của mẹ, lời van xin của chú dì và làng xóm, Maria đành gạt nước mắt bước lên xe. Nhưng trong lòng không ngớt cầu xin Đức Mẹ cứu giúp mình. Đến rạp, thừa lúc được tự do, Maria lấy một viên gạch đập gẫy hai răng cửa, vì trước đây, cô đã nghe một chị bạn nói: người hát hay , nhưng đã mất răng cửa thì không thể hát được như trước nữa.
Trước cử chỉ gan dạ đó của Maria, chủ rạp hát phải khâm phục và không thuê nữa.
Lạy Mẹ nhân từ, là Mẹ chúng con, xin cho chúng con được gan dạ yêu mến Chúa và Đức Mẹ dù phải hy sinh mọi sự, dù tính mạng, dù tài năng, xin Mẹ cho chúng con được sẵn lòng đủ can đảm hy sinh để luôn được Chúa và Đức Mẹ làm phần thưởng.
|
|